Cơ hội cho một chuyến tới “quốc gia khởi nghiệp”

 

 

 

Cuộc thi khởi nghiệp cùng Israel 2014 do Đại sứ quán Israel phối hợp với Bộ KH&CN, Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) tổ chức là một sự kiện đáng chú ý giữa bối cảnh cộng đồng các doanh nhân khởi nghiệp ở Việt Nam đang từng bước định hình và rất cần học hỏi kinh nghiệm từ những đất nước có hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển như Israel. Tạp chí Tia Sáng đã có cuộc phỏng vấn bà Meirav Eilon Shahar, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Israel tại Việt Nam, về sự kiện này


Xin đại sứ cho biết động lực nào đã thúc đẩy Đại sứ quán Israel tại Việt Nam tham gia tổ chức cuộc thi lần này?

Mục đích của chúng tôi là tạo một cầu nối giữa cộng đồng các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam và cộng đồng các doanh nghiệp khởi nghiệp Israel. Như bạn đã biết, cuộc thi sẽ chọn ra bốn doanh nghiệp Việt Nam thuộc bốn lĩnh vực web, mobile, nông nghiệp, và khoa học đời sống được cử đại diện tham gia một chuyến đi thực hành khởi nghiệp tại Israel trong tháng 12 năm 2014. Qua chuyến đi này, chúng tôi sẽ thu xếp để họ gặp gỡ, kết nối, và học hỏi kinh nghiệm ở những đối tác hoạt động trong cùng lĩnh vực tại Israel.

Những doanh nhân chiến thắng của cuộc thi cần có những phẩm chất gì?

Các tiêu chí mà chúng tôi tìm kiếm ở các doanh nghiệp khởi nghiệp tham gia cuộc thi là sự sáng tạo, khả năng làm việc nhóm của tập thể nhân viên công ty, kế hoạch kinh doanh có tính thuyết phục. Ngoài ra, chúng tôi cũng đặt ra một số tiêu chí khác, ví dụ như ưu tiên cho các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính thân thiện với môi trường.

Thị trường đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam còn khá sơ khai, vì vậy các doanh nghiệp khởi nghiệp đang rất thiếu các nhà đầu tư. Liệu qua cuộc thi lần này, Đại sứ quán Israel có thể thúc đẩy các nhà đầu tư Israel đến với các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam?

Công việc đầu tư, kinh doanh là những hoạt động thuộc phạm vi của khu vực tư nhân, chúng tôi không thể can thiệp và tác động. Tuy nhiên, chuyến đi thực hành khởi nghiệp tại Israel cũng là một cơ hội để các doanh nhân khởi nghiệp chiến thắng trong cuộc thi được tiếp cận với hệ sinh thái khởi nghiệp Israel, trong đó họ có cơ hội gặp gỡ, kết nối với các nhà đầu tư Israel. Song điều tôi muốn lưu ý ở đây là tuy tiền bạc và nguồn lực tài chính rất quan trọng cho các doanh nhân khởi nghiệp, nhưng kinh nghiệm và mạng lưới các quan hệ còn quan trọng hơn. Vì thế, việc tiếp cận với hệ sinh thái khởi nghiệp Israel và những kinh nghiệm và các mối quan hệ thu được từ đó có thể sẽ rất hữu ích cho các doanh nhân khởi nghiệp Việt Nam.

Được biết chuyến đi thực hành khởi nghiệp tại Israel sẽ diễn ra trong tuần đầu tháng 12. Liệu thời gian một tuần có đủ để các doanh nhân khởi nghiệp học hỏi những kinh nghiệm cần thiết, khi mà các hoạt động huấn luyện cho doanh nghiệp khởi nghiệp trên thế giới nhìn chung thường đòi hỏi thời gian dài hơn, có thể là vài tháng hoặc thậm chí cả năm?

Đây là lần đầu tiên chúng tôi tổ chức một cuộc thi cho các doanh nhân khởi nghiệp tại Việt Nam. Chúng tôi không kỳ vọng sẽ đạt được một kết quả hoàn hảo ngay lập tức. Sau khi các doanh nhân khởi nghiệp chiến thắng trở về từ chuyến đi thực hành khởi nghiệp tại Israel, chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi với họ nhằm rút kinh nghiệm để có thể tổ chức tốt hơn các sự kiện tương tự trong tương lai, theo đó xác định khung thời gian như thế nào là hợp lý nhất, và những trải nghiệm nào là hữu ích cho các doanh nhân khởi nghiệp Việt Nam.

Các quốc gia khác có tổ chức cho doanh nhân khởi nghiệp của họ đến tìm hiểu kinh nghiệm khởi nghiệp ở Israel?

Nhiều nước trên thế giới đã tổ chức những chuyến đi thực hành khởi nghiệp tại Israel. Ở khu vực ASEAN, Đại học Quốc gia Singapore vẫn tổ chức những chuyến thực hành khởi nghiệp trong vòng sáu tháng cho sinh viên của họ tại Israel, bởi họ quan niệm rằng khởi nghiệp là một kỹ năng vô cùng quan trọng mà mọi sinh viên đều nên có cơ hội được sớm trải qua. Tôi được biết trong số các sinh viên của Đại học Quốc gia Singapore, từng có hai sinh viên người Việt Nam. Chúng tôi hi vọng trong tương lai không xa có thể hỗ trợ tổ chức những chuyến thực hành khởi nghiệp dài ngày như vậy cho các doanh nhân khởi nghiệp và các bạn trẻ Việt Nam quan tâm.

Ngoài các doanh nhân khởi nghiệp, các vườn ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp cũng là một mắt xích thiết yếu của hệ sinh thái khởi nghiệp. Vậy ngoài chuyến đi của các doanh nhân khởi nghiệp tới đây, liệu sẽ có cơ hội khác dành cho các nhà quản lý vườn ươm doanh nghiệp ở Việt Nam tới tìm hiểu hệ sinh thái khởi nghiệp Israel?

Đây là một ý tưởng hay. Hiện nay phía Israel đã có những thỏa thuận hợp tác với Bộ KH&CN Việt Nam. Trong khuôn khổ đó, chúng tôi sẵn lòng kết nối để tạo cơ hội cho các vườn ươm tạo doanh nghiệp ở Việt Nam tìm hiểu kinh nghiệm và kết nối với các vườn ươm tạo doanh nghiệp cùng hệ sinh thái khởi nghiệp của Israel.

Xin trân trọng cảm ơn bà.

Một số yêu cầu đối với các ứng viên cuộc thi Khởi nghiệp cùng Israel 2014:

* Độ tuổi ứng viên: 20-40

* Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp: Web/Mobile/Nông nghiệp/Khoa học đời sống

* Doanh nghiệp tham gia cuộc thi cần có lịch sử hoạt động từ hai tới ba năm, có chiến lược kinh doanh cụ thể. Yêu cầu có ít nhất một thành viên sáng lập sử dụng thành thạo tiếng Anh. Các ứng viên tự đảm bảo không có vi phạm hay tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm dự thi.

* Hồ sơ dự thi trình bày bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt, bao gồm các thông tin về công ty và chiến lược kinh doanh chi tiết dưới dạng PDF. Bên cạnh đó, ứng viên cần cung cấp một đoạn phim độ dài khoảng hai-ba phút bằng tiếng Anh để thuyết phục ban giám khảo vì sao công ty của mình xứng đáng giành được chuyến thực hành tại Israel.

* Hạn cuối cùng nộp hồ sơ là ngày 8/10/2014. Sau vòng loại hồ sơ, vào tuần đầu tháng 11, tám ứng viên xuất sắc nhất (mỗi lĩnh vực sẽ có hai ứng viên) sẽ lọt vòng phỏng vấn. Tại đó ứng viên sẽ thuyết trình bằng tiếng Anh về dự án kinh doanh của mình và hỏi đáp với giám khảo.

* Sau cuộc phỏng vấn của ban giám khảo, bốn ứng viên chiến thắng sẽ được công bố. Nhà tổ chức phía Israel sẽ căn cứ theo đặc thù của từng ứng viên để xây dựng lịch trình tương ứng cho chuyến đi thực hành khởi nghiệp tại Israel vào đầu tháng 12 năm 2014.
Nguồn tin: Tia sáng

 

 

 

Tăng 30% năng suất chế biến chè nhờ cải tiến máy diệt men chè xanh

 

 

 

Trồng chè – ngành kinh tế mũi nhọn của Nghệ An. 
Lần đầu tiên tại tỉnh Nghệ An, loại máy diệt men truyền thống (do Trung Quốc thiết kế, chế tạo) đã được cải tiến, chế tạo thành máy diệt men mới đưa vào sử dụng trong dây chuyền sản xuất, phù hợp với trạng thái nguyên liệu thu hái tại địa phương. Nhờ đó, năng suất chế biến chè tăng 30%, đem lại lợi nhuận hơn 1,1 tỷ đồng/năm cho doanh nghiệp.

Đây là kết quả của công trình nghiên cứu đầu tư cải tiến máy diệt men chè xanh do Ông Chu Quang Vinh – Giám đốc Công ty TNHH chè Trường Thịnh (TP.Vinh, Nghệ An) và các cộng sự thực hiện. Công trình này vừa nhận được Giải thưởng sáng tạo KH&CN tỉnh Nghệ An năm 2013.

Trồng chè – ngành kinh tế mũi nhọn

Ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, từ lâu việc trồng chè gắn với công nghiệp chế biến đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Tính đến hết năm 2013, Nghệ An có gần 8.000 ha chè, ước tính đến hết 2015 tăng lên 11.000 ha, năng suất bình quân từ 12 – 15/tấn/ha/năm. Năm 2012, sản lượng chè toàn tỉnh thu hái trên 50.000 tấn chè tươi. Hiện có gần 30 nhà máy chế biến, hàng năm chế biến hơn 10.000 tấn chè khô xuất khẩu, đem lại cho tỉnh nguồn ngoại tệ hơn 11 triệu USD. Cây chè thực sự đã trở thành loại cây xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, làm giàu cho hàng trăm hộ nông dân trồng chè miền núi xứ Nghệ.

Năm 2012, nhận thấy cấu tạo của bộ phận tiếp nhiệt và đảo chè diệt men của máy diệt men truyền thống do Trung Quốc thiết kế, chế tạo trước đây không còn phù hợp với hiện trạng chất lượng nguyên liệu thu hái theo tập quán tại địa phương như nguyên liệu chè búp tươi thu hái dài quá quy định (chiếm 95%), kích thước búp chè không đồng đều, đã hóa gỗ 50%,…, ông Chu Quang Vinh – Giám đốc Công ty TNHH chè Trường Thịnh (TP.Vinh, Nghệ An) và các cộng sự đã tìm tòi, nghiên cứu, cải tiến và chế tạo một loại máy diệt men mới phù hợp với trạng thái nguyên liệu thu hái tại địa phương.

Giám đốc Công ty Chu Quang Vinh cho biết, việc nghiên cứu, cải tiến máy diệt men truyền thống thành máy diệt men mới nhằm nâng cao chất lượng diệt men, tăng công suất diệt men một lần lên 20 tấn tươi/ngày. Cuối dây chuyền sản xuất cho ra sản phẩm chè xanh viên có chất lượng tốt, sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường, góp phần nâng cao giá thành sản phẩm chè xanh viên của công ty trên thị trường xuất khẩu.

Tăng 30% năng suất chế biến chè

Theo ông Chu Quang Vinh, nhóm nghiên cứu đã tháo dỡ máy diệt men truyền thống, cắt bỏ toàn bộ bộ phận tiếp nhiệt – đảo chè bên trong của máy diệt men truyền thống vì bộ phần này được Trung Quốc thiết kế chỉ phù hợp với chức năng diệt men cho loại nguyên liệu chè hái ngắn, búp chè đủ độ non, mềm như ở Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản,… không phù hợp với vùng nguyên liệu hái dài như ở Nghệ An.

Nếu như máy diệt men trước đây có cấu tạo bộ phận tiếp nhiệt – đảo chè bên trong là các lá thép dày, dài, được gắn dạng hình xoắn trôn ốc lên thành ruột thì nay được chế tạo mới bằng các thanh thép không rỉ, dài 1m, cao 10m, dày 5mm dạng thẳng, gắn song song, cách đều nhau bên trong thành ruột máy. Qua phân tích trước khi chế tạo và chạy thử nghiệm cho thấy, cấu tạo mới này giúp chè nguyên liệu được tiếp nhiệt một cách đồng đều, cho hiệu quả diệt men gần 100%.

Đặc biệt, trên các thanh thép tiếp nhiệt và đảo chè dạng thẳng được nghiên cứu và gắn một hệ thống răng thép hình tròn trụ, so le, cách đều để đảo chè diệt men khi máy làm việc. Nhờ hệ thống răng thép đảo chè này mà 100% chè búp tươi đưa vào diệt men được đảo tơi liên tục, chè không bị cuộn tròn, vón cục như máy truyền thống. Đặc biệt, nhờ cấu tạo mới của bộ phận đảo tơi, tiếp nhiệt mới có tính năng làm cho chè tiếp xúc với nhiệt liên tục và làm cho chè chuyển động đi ra ngoài một cách từ từ, đảm bảo thời gian chè đủ thời gian di chuyển trong lòng máy nên 100% enzim men sẵn có trong búp chè tươi được triệt tiêu hoàn toàn. Vì vậy, không phải sàng lại để diệt men lần 2 như khi dùng máy diệt men truyền thống.

Máy diệt men cải tiến đã được đưa vào hoạt động trong dây chuyền sản xuất chè xanh viên của công ty. Kết quả chè khi diệt men không còn bị cuộn tròn, vón cục, 98% búp chè khi cho vào diệt men được đảo tơi và tiếp xúc với nhiệt đồng đều. Khi kiểm tra chè thành phẩm ở công đoạn cuối cùng cho thấy chất lượng chè hơn hẳn 30% so với khi máy diệt men chưa được cải tiến. Cụ thể, gần 100% chè có màu xanh đen đặc trưng, tỷ lệ thu hồi cao hơn 15%, đặc biệt màu nước chè pha ra có màu xanh, trong sáng hơn 20%, độ bền màu của nước chè pha cao.

Theo tính toán, trong năm đầu tiên áp dụng, việc dùng máy diệt men cải tiến mới đã đem lại tỷ lệ thu hồi sản phẩm từ chè thô bán thành phẩm tăng 15%, đem lại lợi nhuận hơn 1,1 tỷ đồng cho doanh nghiệp. Công trình này không chỉ phù hợp áp dụng tại tỉnh Nghệ An mà còn phù hợp với các nhà máy chế biến chè xanh trên địa bàn cả nước.

Hơn 10 năm qua, Công ty TNHH chè Trường Thịnh đã thu mua, bao tiêu sản phẩm chè búp tươi trên địa bàn các xã của huyện miền núi Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông,… (Nghệ An) để chế biến thành sản phẩm chè xanh viên và chè xanh đen xuất khẩu, một phần bán tiêu dùng nội địa.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm chè của công ty: nội tiêu 10%, còn lại chủ yếu xuất khẩu đến thị trường các nước Anh, Hà Lan, Đức, Iran, Pakistan, Đài Loan,…
Hạnh Nguyên

 

 

 

Việt Nam – Australia: Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực truyền thông KH&CN

 

Ngài Graham Durant phát biểu tại khóa tập huấn.

Ngày 08/9/2014, tại thành phố Canberra, thủ đô Australia, đã diễn ra Lễ khai mạc khóa tập huấn ngắn hạn về truyền thông khoa học và công nghệ (KH&CN) cho cán bộ của Bộ KH&CN Việt Nam.

Đây là nhiệm vụ trong khuôn khổ chương trình hợp tác quốc tế về KH&CN theo Nghị định thư Việt Nam – Australia, được thực hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển (NC&PT) Truyền thông KH&CN (Bộ KH&CN Việt Nam) với Đại học Quốc gia Australia và Trung tâm KH&CN Quốc gia Australia – Questacon.

Tham dự Lễ khai mạc có GS. Marnie Hughes-Warrington – Phó Hiệu trưởng Đại học Quốc gia Australia, ông Lương Thanh Nghị – Đại sứ Việt Nam tại Australia, GS. Graham Durant – Giám đốc Trung tâm KH&CN Quốc gia Australia, TS. Trần Công Yên – Tham tán KH&CN Việt Nam tại Australia, bà Trần Thị Xuân – Phó Giám đốc Trung tâm NC&PT Truyền thông KH&CN cùng các thầy cô giáo Đại học Quốc gia Australia, đại diện các đơn vị trực thuộc Questacon, các cán bộ Văn phòng đại diện KH&CN Việt Nam tại Australia và các đại biểu tham dự khóa tập huấn.

Phát biểu tại Lễ khai mạc, GS. Graham Durant cho biết, để trở thành nước có nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới chỉ với trên 23 triệu dân, Australia luôn đặt KH&CN là nền tảng, yếu tố hàng đầu quyết định cho sự thành công và phát triển. Giáo sư nhấn mạnh: Khoa học là công thức đã được minh chứng cho sự thành công ở nhiều quốc gia; Khoa học tạo ra cơ hội nghề nghiệp và sự thịnh vượng; Khoa học tạo ra những người chiến thắng trong thế giới công nghệ cao.

Đặc biệt, khi nói đến vai trò quan trọng của công tác truyền thông khoa học, GS. Graham Durant khẳng định: Khoa học không thể phát triển mà không có truyền thông khoa học. Hợp tác trong nghiên cứu KHCN, giáo dục và truyền thông sẽ củng cố tình hữu nghị và sự hiểu biết giữa nhân dân Việt Nam và Australia vì lợi ích của cả hai nước.

GS. Graham Durant cho biết, Tuần lễ khoa học quốc gia Australia năm 2014 vừa kết thúc vài ngày trước đây là sự kiện rất thành công với hơn 1.600 sự kiện KH&CN diễn ra trên khắp nước Australia và có sự quan tâm đặc biệt của giới truyền thông với gần 3.000 bài báo trên các phương tiện truyền thông khác nhau.

Được biết, đây là đợt tập huấn thứ 3 trong khuôn khổ chương trình Nghị định thư hợp tác giữa hai nước triển khai trong năm 2014. Hai đợt trước tổ chức tại Việt Nam, trong đó, đợt tập huấn thứ nhất do ông Brenton Noel Honeyman (Giám đốc Dự án Chiến lược và Đối tác khơi dậy nguồn cảm hứng Australia, Questacon) chủ trì, tập trung vào các chiến lược gắn kết với khoa học và Tuần lễ khoa học quốc gia; đợt tập huấn thứ hai do TS. Merryn Clare McKinnon (Đại học Quốc gia Australia) chủ trì, tập trung vào các chuyên đề khoa học trong thông tin đại chúng và kỹ năng báo chí, truyền thông KH&CN.

GS. Graham Durant đánh giá cao sự chuẩn bị dày công của Trung tâm Quốc gia Nhận thức Khoa học Cộng đồng (Đại học Quốc gia Australia) đã xây dựng được một chương trình học tập rất thú vị và có giá trị khoa học cao. Khóa học tập trung đào tạo kỹ năng gắn kết KH&CN với cộng đồng xã hội; kỹ năng tổ chức truyền thông KH&CN; kỹ năng truyền thông KH&CN trên các phương tiện truyền thông khác nhau; các mô hình khác nhau về truyền thông khoa học hiệu quả; khoa học và thông tin đại chúng; khoa học và văn hóa cùng với các phương thức truyền thông khoa học khác nhau trong các nền văn hóa khác nhau; truyền thông khoa học và chính sách khoa học;…. Ngoài các buổi học trên lớp, khóa học cũng tổ chức các buổi tham quan thực tế tại các cơ quan truyền thông khoa học Australia như Questacon, CSIRO Discovery, Bảo tàng thiên nhiên Tidbinbilla.

Cuối khóa học các học viên hoàn thành chương trình sẽ được Đại học Quốc gia Australia cấp chứng chỉ học tập.

Tin, ảnh: Ánh Tuyết- Ngũ Hiệp

 

 

 

Nhiều ứng dụng KH&CN thành công trong phát triển nông lâm ngư nghiệp


Nhằm đánh giá kết quả hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) của vùng Trung du và miền núi phía Bắc cũng như từng địa phương trong vùng giai đoạn 2012 – 2014. Ngày 4/7 tại tỉnh Bắc Kạn, Bộ KH&CN phối hợp với UBND tỉnh Bắc Kạn tổ chức Hội nghị Giao ban KH&CN các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc lần thứ XV.

Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Cạn Nông Văn Chí; đại diện lãnh các đơn vị thuộc Bộ KH&CN; đại diện lãnh đạo và cán bộ của các sở KH&CN thuộc các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc và đại diện lãnh đạo các cơ quan ban ngành có liên quan.

Thứ trưởng Trần Văn Tùng đánh giá cao các thành tựu của vùng trong thời gian qua, đặc biệt là việc cải tiến, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và đưa nhanh các kỹ thuật tiến bộ vào phát triển nông lâm nghiệp.

Báo cáo tại Hội nghị, Vụ trưởng Vụ Phát triển KH&CN Địa phương Hồ Ngọc Luật cho biết, giai đoạn 2012-2014, các tỉnh trong vùng đã thực hiện 878 nhiệm vụ KH&CN. Tuy nhiên, hoạt động KH&CN của vùng vẫn còn một số tồn tại cần có giải pháp khắc phục: việc bố trí kinh phí ở một số địa phương; công tác xã hội hóa chưa được đẩy mạnh; nhiều sản phẩm có thế mạnh của vùng chưa được đầu tư phát triển một cách thỏa đáng,…

Tại Hội nghị, các đại biểu đã đánh giá kết quả các hoạt động KH&CN phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương; chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp để giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực tế triển khai các hoạt động KH&CN,…

 

Về một số ứng dụng KH&CN thành công của tỉnh thời gian qua, Phó Chủ tịch Nông Văn Chí cho biết, Bắc Kạn đã tập trung vào các lĩnh vực có tiềm năng, triển khai các đề tài, dự án, phát triển cây trồng vật nuôi, vật nuôi bản địa tạo thành vùng sản xuất hàng hóa có giá trị kinh tế cao.

 

Một số dự án nhằm duy trì và phát huy một số vật nuôi bản địa như: Ngan, Gà của đồng bào Mông.

 

Dự án chăn nuôi lợn bán hoang dã tại Thị xã Bắc Kạn.

 

Đặc biệt là ứng dụng công nghệ nuôi cấy invitro để nhân giống cây khoai môn phục vụ sản xuất.

 

Triển khai và nhân rộng một số loại nấm. Ngoài ra, tỉnh đã xây dựng thành công và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ cho một số sản phẩm gồm: Hồng không hạt, Quýt Bắc Kạn, Gạo Bao Thai Chợ Đồn, Miến dong Bắc Kạn,…

Với sự chứng kiến của các đại biểu, Lãnh đạo Sở KH&CN tỉnh Hòa Bình đã nhận lẵng hoa tượng trưng từ Lãnh đạo Sở KH&CN Bắc Kạn, đảm nhận vai trò tổ chức Hội nghị Giao ban KH&CN các tỉnh trung du miền núi phía Bắc lần thứ XVI tại Hòa Bình vào năm 2016.

 

Trước đó, vào ngày 3/7 cũng tại Bắc Kạn, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã phối hợp với Bộ KH&CN, Ban Chỉ đạo Tây Bắc và UBND tỉnh Bắc Kạn tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc” tại tỉnh Bắc Kạn.

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Trần Văn Tùng cho biết, Chương trình KH&CN phục vụ phát triển vùng Tây Bắc là một trong những chương trình KH&CN cấp Quốc gia nhằm thực hiện Quyết định số 1244/QĐ-TTg về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2011 – 2015.

Giám đốc ĐHQGHN, Chủ nhiệm Chương trình Tây Bắc Phùng Xuân Nhạ cho rằng, 14 tỉnh Tây Bắc và vùng phụ cận có những nét chung, các địa phương cần, chia sẻ, tích hợp các đề xuất, nhiệm vụ để triển khai, tránh trùng lặp. Ngoài ra, Chương trình mong muốn nhận được các trao đổi, đề xuất các giải pháp…, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển bền vững ở các địa phương vùng Tây Bắc 

Trong khuôn khổ Hội thảo, đại diện Sở KH&CN các địa phương đã trao đổi và đưa ra nhiều đề xuất, đặt hàng các nhiệm vụ KH&CN trực tiếp hướng tới việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn phát triển của vùng Tây Bắc, như: Công nghệ tiết kiệm nước cho cây trồng và cho sinh hoạt của người dân.

Công nghệ bảo quản nông – lâm sản sau thu hoạch; Nâng cao năng xuất và tạo thị trường tiêu thụ bền vững cho một số cây trồng, vật nuôi đặc sản, có giá trị kinh tế cao; Nghiên cứu sản xuất tấm lợp cho đồng bào nghèo,…

Ngũ Hiệp – Bùi Hiếu

 

 

 

 

Triển khai mạng thông tin di động LTE/4G tại Việt Nam

 

 

 

Các nhà khoa học của Công ty Dịch vụ Viễn thông – VNP (Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam) đã triển khai thành công mạng thông tin di động LTE/4G tại Việt Nam. Với tốc độ truyền dữ liệu; mô hình truyền sóng theo mật độ dân cư, địa hình, môi trường cho các khu vực khác nhau mạnh mẽ hơn so với mạng 3G hiện nay.

Đây là kết quả của đề tài “Nghiên cứu triển khai mạng thông tin di động LTE/4G và phương án xây dựng các hệ thống qui hoạch quản lý mạng và cung cấp dịch vụ LTE/4G tại Việt Nam”, mã số KC.01.17/11-15, thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước KC.01/11-15 do TS Nguyễn Thị Phương Loan làm chủ nhiệm. Thời gian thực hiện từ 1/2012-12/2013 với kinh phí là 5.100 triệu đồng vừa được nghiệm thu ngày 31/5, tại Hà Nội.

 

Năm 2009, mạng thông tin di động 3G bắt đầu được triển khai tại Việt Nam mở ra một giai đoạn mới về sự nở rộ của dịch vụ data băng thông rộng trên thị trường viễn thông. Đến nay đã có 3 nhà mạng chính thức cung cấp dịch vụ với rất nhiều dịch vụ trên nền 3G như: Video call, Mobile Internet, Mobile TV, Mobile camera, game online… Sau khi triển khai, các dịch vụ băng thông rộng đã và đang chứng tỏ vai trò của mình trong công cuộc thu hút thuê bao, đem lại doanh thu đáng kể cho nhà mạng.

Tiếp theo sự ra đời của các mạng thông tin di động 3G, mạng di động thế hệ mới 4G đang được hàng loạt nhà mạng trên thế giới nhắc đến trong những chiến dịch truyền thông. Mạng 4G sẽ rút ngắn đáng kể thời gian truyền tải của các dòng dữ liệu đến và đi khỏi thiết bị, đồng thời mang lại lợi ích cho những giao tiếp mang tính trao đổi liên tục.

Vì vậy theo TS. Nguyễn Thị Phương Loan, với kết quả đạt được của hệ thống thử nghiệm, đề tài đã so sánh thực tế các tiêu chí đã đạt được của mạng LTE so với mạng 3G, như: tốc độ dữ liệu trung bình là 14.377,8 kbis/s; tốc độ dữ liệu cực đại đạt tới 73344 kbis/s… Tại vùng phủ sóng thử nghiệm dọc theo tuyến giao thông quan trọng từ Tp. Hà Nội đi sân bay Nội Bài. Hệ thống thử nghiệm bao gồm một hệ thống mạng lõi với các phần tử MME, S-GW, PDN GW,… và 15 phần tử vô tuyến eNodeB với việc thử nghiệm một số dịch vụ cơ bản, tốc độ download đạt đến 73 Mbps. So với mạng 3G tiện ích lớn nhất mà mạng LTE/4G đem lại là tăng tốc độ truyền dữ liệu, mở ra thị trường các dịch vụ gia tăng đòi hỏi băng thông lớn.

Trong quá trình nghiên cứu, triển khai, đề tài đã đi sâu nghiên cứu mô hình truyền sóng LTE/4G tại Việt Nam, với việc tiến hành phát trạm giả để đo đạc số liệu cho 18 điểm tại khu vực thử nghiệm. Nhóm nghiên cứu đã lấy mẫu mô hình truyền sóng theo mật độ dân cư, địa hình, môi trường đặc trưng cho khu vực nội thị, khu ngoại ô và khu vực nông thôn thưa dân cư. Với những tính năng ưu việt trên, mô hình này đã được Tổ chức Aircom (Tổ chức độc lập, cung cấp dịch vụ tư vấn đa công nghệ) xác nhận và cân chỉnh theo đặc thù về mật độ dân cư, môi trường, địa hình tương tự khu vực thử nghiệm.

Tin, ảnh: Bùi Hiếu

 

 

 

 

Vai trò của khoa học và công nghệ hiện đại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 

 

 

Xác định rõ tầm quan trọng của KH-CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH-CN đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

 

1. Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XX với nội dung chủ yếu là cơ khí hoá, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH-CN) hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX và nhanh chóng làm nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội toàn cầu. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 lĩnh vực chủ yếu, đó là: Tự động hoá, sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt; sử dụng năng lượng, ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thuỷ điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là chủ yếu và các dạng năng lượng “sạch” như năng lượng mặt trời, v.v…; công nghệ vật liệu mới, xuất hiện với nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Ví dụ: vật liệu tổ hợp (composit); gốm zincôn hoặc cácbuasilích chịu nhiệt cao…; công nghệ sinh học, được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường… như công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào; điện tử và tin học, đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo bốn hướng: nhanh (máy siêu tính); nhỏ (vi tính); máy tính có xử lý kiến thức (trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa (viễn tin học).

Từ nội dung trên, ta thấy cách mạng KH-CN hiện đại có hai đặc điểm chủ yếu sau:

Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự nhiên – kỹ thuật lẫn khoa học xã hội, nhất là khoa học kinh tế) do con người tạo ra và thông qua con người đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học, kỹ thuật, công nghệ tương ứng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH).

Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược KH-CN với chiến lược CNH-HĐH nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nói chung.
Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng KH-CN ở nước ta hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu; 1) Xây dựng thành công cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân; 2) Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của KH-CN hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

Trong quá trình thực hiện cách mạng KH-CN, điểm nổi bật được chú trọng là ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ CNH-HĐH và từng bước phát triển kinh tế tri thức; sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho KH-CNå; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả; kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội.

Xác định rõ tầm quan trọng của KH-CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH-CN đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta khẳng định: “KH-CN giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các chiến lược KH-CN nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực KH-CN của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí”(1). Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi bàn đến vai trò của KH-CN hiện đại, Đảng ta nhấn mạnh: “KH-CN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển KH-CN nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực KH-CN gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực KH-CN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KH-CN hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng KH-CN”(2). Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã thông qua Nghị quyết mới về “Phát triển KH-CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” cũng đã thể hiện rõ hơn điều đó. Ngoài ra, vai trò của KH-CN hiện đại còn được thể hiện rõ trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Khoản 1, Điều 62, Chương III, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: Phát triển KH-CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Như vậy, có thể nói rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển KH-CN hiện đại là “quốc sách hàng đầu” và giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chiến lược phát triển KH-CN ở Việt Nam cần tập trung một số nội dung:

Thứ nhất, ưu tiên phát triển nguồn nhân tài chất lượng cao, chú trọng việc vận dụng kiến thức, kinh nghiệm khoa học của đội ngũ trí thức trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về KH-CN. Trọng tâm là giáo dục và đào tạo ở bậc đại học phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trong đó ưu tiên đầu tư ngân sách cho các ngành khoa học mũi nhọn, những công trình nghiên cứu cấp quốc gia, quốc tế, những công trình ứng dụng có hiệu quả kinh tế cao. Các viện nghiên cứu và các trung tâm khoa học có sự liên thông, liên kết chặt chẽ trên phạm vi cả nước, nhằm khai thác triệt để sức mạnh tổng hợp của nguồn chất xám. Mỗi sinh viên trong suốt quá trình đào tạo phải được biên chế trong một tổ, nhóm nghiên cứu cụ thể, do các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành trực tiếp phụ trách. Kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên sẽ được đánh giá, xếp loại từng học kỳ, từng năm và có giá trị ngang với việc học tập lý thuyết cơ bản. Cần cải cách giáo dục theo hướng tích cực nhằm rút ngắn thời gian đào tạo và trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học.

Thứ hai, phát huy có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng nhân tài. Việc thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ quan trọng, trong đó không chỉ ở các cơ quan Trung ương, mà ở các địa phương cũng cần phải có kế hoạch sử dụng nhân tài, công khai mời gọi và lựa chọn nhân tài KH-CN tiên tiến trong và ngoài nước. Chú ý đến việc xây dựng những tập thể và nhóm nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. Quan tâm và sử dụng có hiệu quả các nhà khoa học tài năng ngoài Đảng vào các vị trí then chốt trong bộ máy chính quyền. Điều đó cần thấu triệt trong cả nhận thức và hành động, khắc phục tình trạng lâu nay, ở không ít nơi chỉ nói lý thuyết suông, chứ chưa thực sự thực hiện.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển KH-CN, chú trọng vào việc việc ứng dụng, sáng tạo công nghệ cao làm động lực cho đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức. Đã từ lâu, chúng ta quan tâm tới việc phát triển KH-CN, song trong lĩnh vực công nghệ chúng ta chưa tập trung vào việc ứng dụng và sáng tạo, phát triển công nghệ cao. Vì vậy, trong thực tế, một mặt, chúng ta không tạo được động lực cho phát triển, mặt khác, với việc ứng dụng công nghệ lạc hậu, một hậu quả tất yếu là sẽ cản trở quá trình CNH, HĐH đất nước; cản trở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội. Đã đến lúc cần phải “tuyên chiến” với công nghệ lạc hậu và chỉ chấp nhận nhập khẩu, ứng dụng và đầu tư sáng tạo công nghệ cao đồng thời với việc sử dụng có hiệu quả những công nghệ hiện có. Là nước đi sau, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có.

Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức, nhất là công nghệ thông tin, chúng ta có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước. Phát triển mạnh KH-CN làm động lực đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực KH-CN; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng… Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ, các sản phẩm KH-CN trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển KH-CN.

Thứ tư, nghiên cứu đưa các sáng chế KH-CN hiện đại vào sản xuất, phát triển các nhóm ngành công nghiệp cơ khí, điện tử – công nghệ thông tin, chế biến tinh lương thực – thực phẩm có hàm lượng KH-CN và giá trị gia tăng ngày càng cao. Trong đó, chú ý nghiên cứu đưa tiến bộ KH-CN sinh học vào phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp tri thức, xây dựng nông thôn mới.

Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quản lý để cung cấp cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của đất nước, nhất là các giải pháp trên lĩnh vực về giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội, giảm nghèo bền vững và hội nhập quốc tế./.

 

TS. Nguyễn Đình Quốc Cường (Theo Tạp chí Tuyên Giáo)

 

 

 

 

 

 

Thông báo: Hội thảo quốc gia về Ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội

 

 

 


1. MỤC ĐÍCH

Đánh giá tình hình, kết quả và triển vọng phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Hội thảo nằm trong chương trình công tác của Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia để chuẩn bị cho công tác đánh giá, tổng kết 10 năm (giai đoạn 2006-2015) thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020.

 

Hội thảo là dịp để các chuyên gia, các nhà khoa học và công nghệ, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cơ sở ứng dụng gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm nhằm tăng cường hợp tác nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

2. THỜI GIAN
Ngày 23-24 tháng 10 năm 2014.

3. ĐỊA ĐIỂM
Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam (Địa chỉ cụ thể sẽ thông báo sau).

4. CƠ QUAN TỔ CHỨC
Cục Năng lượng nguyên tử, cơ quan thường trực Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia và Sở Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng.

5. THÀNH PHẦN THAM DỰ
– Các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà quản lý đến từ các cơ sở nghiên cứu, các cơ sở ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các lĩnh vực: y tế, công nghiệp, nông nghiệp, tài nguyên môi trường,…;
– Lãnh đạo các cơ quan quản lý của các bộ: Khoa học và Công nghệ, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương, Tài nguyên và Môi trường; các sở, ban, ngành, các địa phương có quan tâm;
– Đại diện các doanh nghiệp, nhà sản xuất và cung cấp trang thiết bị;
– Các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân quan tâm đến ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các ngành kinh tế – xã hội;
– Các chuyên gia nước ngoài;
– Phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí trung ương và địa phương.

6. THƯỜNG TRỰC BAN TỔ CHỨC
Trưởng ban: TS. Hoàng Anh Tuấn, Cục trưởng Cục NLNT.
Phó Trưởng ban thường trực: ThS. Lê Doãn Phác, Phó Cục trưởng Cục NLNT.
Phó trưởng ban: TS. Lê Quang Nam, Giám đốc Sở KHCN Đà Nẵng.
Ủy viên thư ký: KS. Nguyễn Thị Yên Ninh, Chánh Văn phòng Cục NLNT.

7. NỘI DUNG
Hội thảo sẽ tập trung vào các nội dung chính sau đây:
a. Tình hình triển khai Quy hoạch tổng thể thực hiện Chiến lược phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020;
b. Kinh nghiệm và thành tựu quốc tế trong phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội;
c. Tình hình, kết quả, triển vọng và giải pháp ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội: y tế, công nghiệp, nông nghiệp, tài nguyên môi trường. Các lĩnh vực chuyên môn bao gồm:
– Y học hạt nhân, xạ trị, chẩn đoán hình ảnh, sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ;
– Kỹ thuật đánh dấu (Tracer), Kỹ thuật kiểm tra không phá hủy (NDT), Kỹ thuật điều khiển hạt nhân (NCS);
– Ứng dụng công nghệ bức xạ (bảo quản thực phẩm, tiệt trùng dụng cụ y tế, vật liệu mới…);
– Đột biến tạo giống cây trồng, tiệt sinh côn trùng;
– Thuỷ văn đồng vị (tài nguyên nước, an toàn đê, đập,…), thăm dò và khai thác khoáng sản, phân tích hạt nhân,…;
– Các lĩnh vực chuyên môn liên quan.

8. TUYỂN TẬP BÁO CÁO HỘI THẢO
Ban Tổ chức sẽ lựa chọn những báo cáo, tham luận để đưa vào Tuyển tập báo cáo Hội nghị.

9. GIAN TRƯNG BÀY
Ban Tổ chức bố trí một gian trưng bày tại địa điểm tổ chức Hội thảo để các chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan, doanh nghiệp giới thiệu các kết quả nghiên cứu, ứng dụng và quảng bá công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

10. ĐĂNG KÝ THAM DỰ VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO
– 31/8/2014: Thời hạn cuối cùng đăng ký tham dự Hội thảo (Mẫu A);
– 10/9/2014: Thời hạn cuối cùng đăng ký sử dụng gian trưng bày (Mẫu B);
– 15/9/2014: Thời hạn cuối cùng gửi báo cáo (tóm tắt và toàn văn) và tham luận (Mẫu C).
– 10/10/2014: Ban Tổ chức gửi giấy mời tham dự Hội thảo và thông báo hình thức báo cáo (oral hoặc poster), tham luận.

11. KINH PHÍ THAM DỰ
– Ban Tổ chức không thu lệ phí tham dự hội thảo.
– Các đại biểu tự thu xếp kinh phí đi lại, ăn, ở để tham dự Hội thảo.
– Các tổ chức, đơn vị và cá nhân có nhu cầu quảng bá công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ chịu trách nhiệm đóng góp kinh phí để Ban Tổ chức bố trí gian trưng bày.
Ban Tổ chức hoan nghênh và trân trọng cảm ơn các đơn vị, cá nhân tài trợ cho Hội thảo!
Địa chỉ liên hệ:
Bà Nguyễn Thị Yên Ninh, Chánh Văn phòng Cục Năng lượng nguyên tử.
Địa chỉ: P1001, Tầng 10, Tòa nhà 113 Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội.
Điện thoại: (+84) 4 38263251, (+84) 904364715, Fax: (+84) 4 39412970.
Email: ntyninh@most.gov.vn;
CC : ntyninh@gmail.com; dthong@most.gov.vn; bthoang@most.gov.vn;
Thông tin về hội thảo được đăng tải trên website của Cục NLNT: http://vaea.gov.vn

Nguồn: Cục Năng lượng nguyên tử

 

 

 

Xây dựng lộ trình công nghệ: Lực đẩy phát triển năng lực doanh nghiệp Việt Nam

 

 

 

Chủ tịch Hội đồng Chính sách KH&CN quốc gia Hoàng Văn Phong phát biểu tại Hội thảo.

Việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ được coi là lực đẩy quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển năng lực của mình.


Đây là quan điểm chung của các đại biểu tham dự Hội thảo “Vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ ở Việt Nam” do Văn phòng Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Quốc gia, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ và Văn phòng các Chương trình KH&CN Quốc gia tổ chức ngày 21/8, tại Hà Nội.

Hội thảo là cơ hội tốt cho các nhà quản lý, viện nghiên cứu, doanh nghiệp gặp gỡ, trao đổi, thảo luận về các vấn đề cần thiết để áp dụng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực hiện nay cũng như các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng kế hoạch phát triển, đổi mới công nghệ.

Tham dự hội thảo có Chủ tịch Hội đồng chính sách KH&CN Quốc gia Hoàng Văn Phong; các Ủy viên và chuyên gia cao cấp của Hội đồng, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ KH&CN; Ban chủ nhiệm các chương trình quốc gia về KH&CN; đại diện đơn vị chức năng của các Bộ Công thương, Quốc Phòng, Giao Thông Vận tải, Kế hoạch và Đầu tư,…; lãnh đạo các Hiệp hội, các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, trường đại học.

Các tham luận tại hội thảo tập trung nêu bật vai trò, lợi ích, tầm quan trọng của việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ ở Việt Nam; đặc thù và khó khăn trong việc thực hiện xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ;…

Theo đó, việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ đóng vai trò hỗ trợ quan trọng đối với việc xây dựng chiến lược, chính sách hỗ trợ phát triển cho các ngành, lĩnh vực, qua đó đánh giá được hiệu quả của các chiến lược, chính sách, các chương trình hỗ trợ đổi mới công nghệ trong từng giai đoạn. Đồng thời giúp các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp nhận diện các công nghệ quan trọng và công nghệ sẽ hỗ trợ cho các sản phẩm ưu tiên trong tương lai; giúp xác định những công việc bị trùng lặp trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển; cho phép chính phủ tham gia tốt hơn vào các hợp đồng nghiên cứu và phát triển với các ngành công nghiệp cụ thể bằng việc xác định tốt hơn chương trình nghiên cứu, kế hoạch thực hiện.

 

Toàn cảnh hội thảo

Lộ trình công nghệ được nghiên cứu từ những thập niên 70 của thế kỷ trước, và bắt đầu thành công ở Motorola khi áp dụng năm 1997. Trong 20 năm qua, hàng nghìn lộ trình công nghệ đã được xây dựng ở hàng chục quốc gia trên thế giới trong nhiều ngành, lĩnh vực cũng như doanh nghiệp với nhiều cách tiếp cận khác nhau được phát triển phù hợp với đặc thù của từng quốc gia. Đã có nhiều bài học thành công từ việc sử dụng lộ trình công nghệ như một công cụ hỗ trợ quá trình quản lý công nghệ ở các nước cũng như các doanh nghiệp trong việc đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trên thị trường thế giới như Hàn quốc, Thái Lan, Singapore…

Tại Việt Nam, việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ còn khá mới mẻ và theo nhiều đại biểu tại hội thảo, công việc này đang gặp nhiều khó khăn. Cụ thể như thiếu cơ sở dữ liệu quốc gia bao gồm các thông tin về hiện trạng của các ngành công nghiệp, khoảng cách công nghệ, năng lực nghiên cứu và phát triển,…; việc huy động nguồn lực và sự đồng thuận của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp;…

Vì vậy, hội thảo này có ý nghĩa quan trọng và là bước khởi động để xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ ở Việt Nam. Từ việc nhận thấy được nhu cầu, tính cấp thiết của việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp sẽ đánh giá được thực trạng công nghệ của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Từ đó có kế hoạch phát triển và đổi mới công nghệ một cách thiết thực và hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí đầu tư, nâng cao năng suất chất lượng và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Trên cơ sở ý kiến đồng thuận từ các Bộ, ngành và doanh nghiệp, Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm rõ phương pháp luận cũng như các điều kiện đặc thù để báo cáo Chính phủ và các Bộ ngành về cơ chế cần thiết để hỗ trợ quá trình xây dựng Bản đồ công nghệ quốc gia. Bên cạnh đó, Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ và Văn phòng các Chương trình KH&CN quốc gia tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành triển khai các hoạt động điều tra, đánh giá hiện trạng công nghệ, xây dựng bản đồ công nghệ và lộ trình công nghệ cho các ngành, lĩnh vực cũng như hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng lộ trình công nghệ cho các doanh nghiệp.

Tin, ảnh: Hạnh Nguyên

 

 

 

SMAC – Nền tảng công nghệ phát triển thông minh

 

Chủ đề “SMAC – Nền tảng công nghệ phát triển thông minh” vừa được Viện Khoa học Công nghệ VINASA (VSTI), Hiệp hội phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam VINASA, Viện Công nghiệp phần mềm và Nội dung số Việt Nam (NISCI), Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Công nghệ thông tin (ITI), Đại học Quốc gia Hà Nội, với sự hỗ trợ của các đơn vị trong đó có Microsoft tổ chức tại sự kiện Ngày Công Nghệ Thông Tin 2014 diễn ra sáng nay, tại Hà Nội.

SMAC là nền tảng mới nhất của ngành CNTT thế giới, dựa trên 4 xu hướng hiện đại là Social – xã hội (S), Mobile – di động (M), Analytics – phân tích dữ liệu (A) và Cloud – đám mây (C).

Xu hướng SMAC sẽ giúp kết hợp toàn bộ cấu thành hệ thống một cách chặt chẽ, và tạo ra một hệ sinh thái hoàn chỉnh, lấy con người làm trọng tâm, định hình phát triển xu hướng thông minh mới. Tại sự kiện này, Microsoft đã có phần tham luận xoay quanh chủ điểm Cloud, trọng tâm của SMAC. Bài tham luận nêu bật những ưu điểm về hệ điều hành đám mây Windows Azure, dịch vụ đám mây và vận hành đám mây để có được hiệu quả tối ưu nhất.
Với nhiều trung tâm kinh tế và đô thị phát triển mạnh tại khu vực, Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ SMAC rất lớn. Các doanh nghiệp Việt đang đưa ra các mức đầu tư lớn cho việc cung cấp các dịch vụ trên nền điện toán đám mây.

Ngoài ra, xu hướng Mobility, cũng vấn tiếp tục phát triển với số lượng người dùng ngày càng gia tăng, và làm truyền thông xã hội tại Việt Nam gia tăng mạnh mẽ. Theo con số ước tính, bước nhảy vọt về dịch vụ đám mây, di động, truyền thông xã hội.. này đã đóng góp hơn 80% phương thức giao tiếp online, video online và các nội dung số trên di động. Theo đánh giá của các chuyên gia đầu ngành thì SMAC chính là một cơ hội để Việt Nam đi tắt đón đầu, đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới trong kỷ nguyên số.

Tiến sĩ Nguyễn Việt Hải, Phó chủ tịch VINASA cho biết: “Microsoft là một đối tác quan trọng trong quá trình tư vấn, xây dựng, và phát triển SMAC nói chung và điện toán đám mây tại Việt Nam. Nhờ sự sẵn sàng của hạ tầng dịch vụ Windows Azure, Hạ tầng như một Dịch vụ -IaaS, Microsoft hiện là nhà cung cấp điện toán đám mây duy nhất có thể cung cấp cho khách hàng một giải pháp điện toán đám mây lai toàn diện. Giải pháp này tích hợp cơ sở hạ tầng CNTT hiện tại với tất cả các lợi ích của điện toán đám mây công cộng.”

Ngày Công nghệ Thông tin 2014 lần đầu tiên được tổ chức đã thu hút gần 400 đại biểu trong đó có trên 150 đại biểu là lãnh đạo cao cấp, quản lý CNTT các Bộ, Ban, Ngành, và trên 250 lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, báo chí. Chương trình dự kiến sẽ được tổ chức thường niên như một diễn đàn về xu hướng công nghệ của Việt Nam và thế giới.

Ngày Công nghệ Thông tin 2014 lần đầu tiên được tổ chức đã thu hút gần 400 đại biểu trong đó có trên 150 đại biểu là lãnh đạo cao cấp, quản lý CNTT các Bộ, Ban, Ngành, và trên 250 lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, báo chí. Chương trình dự kiến sẽ được tổ chức thường niên như một diễn đàn về xu hướng công nghệ của Việt Nam và thế giới.

Là tập đoàn hàng đầu với hệ sinh thái công nghệ phong phú, dồi dào nhất, từ hạ tầng, cho đến nền tảng, ứng dụng và dịch vụ đám mây, Microsoft được đánh giá là một trong những cố vấn tin cậy và là đối tác quan trọng trong việc đưa ra những giải pháp, sản phẩm, dịch vụ và thiết bị đáp ứng hoàn chỉnh cho xu hướng SMAC. Tham dự sự kiện “Ngày Công nghệ Thông tin 2014” với vai trò là nhà tài trợ chính, Microsoft đã có phần tham luận xoay quanh chủ điểm Cloud, trọng tâm của SMAC. Bài tham luận nêu bật những ưu điểm về hệ điều hành đám mây Windows Azure, dịch vụ đám mây và vận hành đám mây để có được hiệu quả tối ưu nhất.
Q. H

 

 

 

Điểm tin KH&CN từ ngày 16-22/8

 

Thứ trưởng Trần Việt Thanh và đoàn cán bộ cấp cao Bộ KHCN chụp ảnh lưu niệm cùng Thống đốc tỉnh Ibar
Bộ KH&CN có thêm Thứ trưởng; Bố trí tối đa kinh phí cho Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia; Thí điểm áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt: Lối mở cho khoa học công nghệ;…là những thông tin KH&CN đáng chú ý trong tuần qua.
Bộ KH&CN có thêm Thứ trưởng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký quyết định bổ nhiệm bốn Thứ trưởng, trong đó có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.

Ông Phạm Công Tạc (52 tuổi, quê Nam Định) từng giữ các chức vụ: Trưởng phòng Khoa học và Công nghệ nội bộ, Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, Phó chánh văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, Chánh văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ. Quyết định có hiệu lực từ ngày 16/8. (Theo Tạp chí tia sáng 19/8).

Bố trí tối đa kinh phí cho Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia

Để đảm bảo phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước trong năm 2015, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệ dự kiến kinh phí cho năm 2015 ở mức tối đa phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước để hoàn thành ở mức cao nhất Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2011-2015.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu việc phối hợp xây dựng dự toán ngân sách cho khoa học và công nghệ hàng năm phải thực hiện theo quy định tại Luật ngân sách nhà nước, Luật Khoa học và Công nghệ và các văn bản hướng dẫn có liên quan. (Theo Báo Khoa học phổ thông 22/8).

Thí điểm áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt: Lối mở cho khoa học công nghệ

Chủ trương tự chủ về KHCN, nhất là đối với những ngành kinh tế quan trọng luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo nhà nước. Nhiều dự án KHCN quy mô lớn đã được triển khai và mang lại hiệu quả to lớn. Đến nay, Bộ KH&CN đã phê duyệt 6 dự án KH&CN phục vụ chế tạo các thiết bị cho ngành xi măng, thủy điện, nhiệt điện, thiết bị điện, đóng tàu… Những kết quả của các dự án KH&CN đã có đóng góp tích cực cho các ngành, lĩnh vực trong những năm qua.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các dự án gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách hỗ trợ do chưa có những cơ chế đặc thù như cơ chế thuê chuyên gia, chuyển giao công nghệ, mua bí quyết công nghệ, huy động nguồn lực, đào tạo… Đặc biệt, do những đặc thù khác biệt về cơ chế quản lý nên đến nay các dự án KH&CN phục vụ quốc phòng an ninh chưa triển khai được.

Dự kiến, Đề án “Thí điểm áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt để triển khai dự án KH&CN quy mô lớn phục vụ quốc phòng an ninh và sản phẩm quốc gia” sẽ tiếp tục được hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2014. (Theo Công thương 21/8).

Phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

 

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối với người làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Bộ KHCN

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối với người làm việc trong các đơn vị thuộc lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Đối tượng áp dụng là công chức, viên chức và người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động đã được xếp lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ theo đó mức phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp được tính trên mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) từ 20% đến 70%.

Quyết định có hiệu lưc thi hành từ 1/10/2014. (Theo Báo điện tử chính phủ 19/8).

Việt-Nhật thúc đẩy hợp tác khoa học công nghệ trong nông nghiệp

Đoàn công tác Bộ Khoa học Công nghệ do Thứ trưởng Trần Việt Thanh làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Chính quyền tỉnh Ibaraki nhằm thúc đẩy hơn nữa các hoạt động hợp tác khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn giữa Việt Nam và tỉnh Ibaraki của Nhật Bản.

Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Việt Thanh cũng trao đổi về tiềm năng và đề nghị chính quyền tỉnh ủng hộ các hoạt động khoa học công nghệ nhằm thực hiện các dự án nông nghiệp và phát triển nông thôn trọng điểm ở Việt Nam. Thống đốc Hashimoto cũng bày tỏ quyết tâm trong việc ủng hộ các hoạt động hợp tác khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Ibaraki và mong muốn Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam sớm phái cử cán bộ khoa học tới Ibaraki để tham gia các hoạt động nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ chung trên mọi lĩnh vực,..

Hợp tác khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp với Ibaraki sẽ giúp Việt Nam có cơ hội tiếp cận, học hỏi các thành tựu mới trong khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất của một nền nông nghiệp tiên tiến phục vụ hiệu quả các chương trình, dự án nông nghiệp trọng điểm ở Việt Nam. (Theo vietnamplus 21/8).

Thương mẹ, sáng chế ra thiết bị tự động sưởi ấm cho gà

Em Nguyễn Duy Trí, học sinh lớp 11 Trường PTTH chuyên Đại học Vinh đã thốt lên như vậy khi biết mình đạt giải 3 Hội thi tin học trẻ toàn quốc lần thứ XX năm 2014 với sản phẩm “Thiết bị tự động sưởi ấm cho gà con”

Tìm hiểu qua sản phẩm của Trí sáng chế ra, chúng tôi thấy rõ ưu điểm vượt trội vì với thiết bị này sẽ giúp người chăn nuôi duy trì, đảm bảo được nhiệt độ phù hợp với từng ngày tuổi của gà con, việc điều hòa nhiệt độ cho chuồng gà được thực hiện tự động, khi nhiệt độ cao hơn mức cần thiết thì bóng đèn sẽ tự động tắt, do đó tiết kiệm và tránh hao phí điện năng, giá thành thấp, lắp đặt đơn giản, sử dụng dễ dàng.

 

Niềm đam mê nghiên cứu phần mềm của Trí bên góc học tập của mình.

Thầy giáo Phan Xuân Vọng, Chủ nhiệm lớp của Trí cho chúng tôi biết: “Trí là một học sinh chăm ngoan, học giỏi đều các môn. Đặc biệt, ở em có một niềm đam mê nghiên cứu các phần mềm máy tính nên trong học tập em có rất nhiều ý tưởng sáng tạo. (Theo Báo Quân đội nhân dân 19/8).

Sẽ có trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia đạt chuẩn quốc tế

Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia sẽ được xây dựng mới trong khu các trung tâm và viện nghiên cứu thuộc khuôn viên Đại học quốc gia Hà Nội tại khu CNC Hòa Lạc.

Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia được xây dựng với tiêu chí theo chuẩn quốc tế với các hoạt động bảo tồn, lưu trữ, định danh, đánh giá nguồn gen, xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn gen, kết nối với các trung tâm nguồn gen trong nước và quốc tế. Việc thành lập Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia sẽ góp phần vào việc quản lý và phát triển nguồn gen vi sinh vật theo chuẩn quốc gia, quốc tế. Hơn nữa, từ Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia có thể chủ động nguồn gen trong nước, phát triển công nghệ sản xuất các chế phẩm sinh học thiết yếu phục vụ xã hội và an ninh, quốc phòng. (Theo Khám phá 21/8).

 

Hà Trang (Tổng hợp)