Khai mạc Ngày Sách Việt Nam lần thứ 5

 
TSKH. Phan Xuân Dũng thăm gian hàng của Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
Sáng 18/4, tại Hà Nội đã chính thức diễn ra Lễ khai mạc Hội sách chào mừng Ngày sách Việt Nam lần thứ 5 tại Hà Nội. Tại đây, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (Bộ KH&CN) đã tham gia một gian hàng triển lãm tại Ngày Sách Việt Nam lần thứ 5.
Tới dự buổi lễ có Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng; Ủy viên trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn; Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Đào Việt Trung, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Hoàng Vĩnh Bảo… cùng đông đảo độc giả yêu quý sách.
 
Qua 4 năm thực hiện, Ngày Sách Việt Nam đã trở thành sự kiện văn hóa, một nét đẹp được lan tỏa trong cộng đồng, mang lại những giá trị đích thực và hiệu quả hết sức to lớn.
 
Không chỉ tôn vinh sách, giá trị của tri thức, khẳng định vị thế quan trọng của sách trong xã hội, Ngày Sách Việt Nam và các hoạt động liên quan đến sách còn mang một ý nghĩa nhân văn, đó là thúc đẩy hơn nữa sự đóng góp, hỗ trợ sách cho các địa phương, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những nơi đang thiếu sách, khao khát thông tin, tri thức, đồng thời tuyên truyền, biểu dương và nhân rộng các điển hình, có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa đọc của cộng đồng. 
 
 
Toàn cảnh buổi giao lưu giới thiệu cuốn sách “ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – Cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm”
 
Đặc biệt, tại Ngày Sách Việt Nam lần thứ 5, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã tổ chức giao lưu và giới thiệu sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 – Cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm” của tác giả TSKH. Phan Xuân Dũng – một trong những nhà khoa học, nhà quản lý với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực KH&CN biên soạn.
 
Việt Nam đạt được thành tích về phát triển kinh tế và xã hội, đã giúp nâng cao thu nhập và giảm nghèo, nhưng hiện nay đang đứng trước ngã rẽ quan trọng. Giáo sư Kenichi Ohno – Viện Nghiên cứu Chính sách quốc gia Nhật Bản cho rằng: “Việt Nam đang phải đối mặt với bẫy thu nhập trung bình với một loạt các dấu hiệu đáng lo ngại. Việt Nam sẽ phải dựa nhiều hơn vào việc tăng năng suất lao động thông qua đổi mới sáng tạo công nghệ và cần cải thiện đáng kể năng lực đổi mới sáng tạo trong nước”. 
 
Ông Võ Tuấn Hải – Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Bộ KH&CN cho biết, đây là cuốn sách có chất lượng cao, đưa ra cái nhìn một cách khoa học, mạch lạc về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nó như sợi dây xuyên suốt thể hiện quan điểm thống nhất về cách nhìn của nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách trong quá trình phát triển thúc đẩy lĩnh vực này tại Việt Nam.
 
KH&CN đang phát triển nhanh chưa từng có, tạo nên một cuộc Cách mạng KH&CN mới, thúc đẩy xã hội loài người bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Đây là cuộc cách mạng được đặc trưng bởi sự hợp nhất, sự hội tụ ở đỉnh cao của các lĩnh vực công nghệ in 3 D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy, tích hợp con người – máy móc… Để không bị đẩy ra khỏi tiến trình phát triển chung của nhân loại, các nước đều phải tiến hành đổi mới và hội nhập để khai thác tốt nhất và hạn chế tối đa khó khăn do Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đưa tới.
 
 
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm cùng TSKH. Phan Xuân Dũng
 
 
Cuốn sách do TSKH Phan Xuân Dũng biên soạn với kinh nghiệm của người làm công tác lâu năm trong hoạch định chính sách, quản lý KH&CN đầy tâm huyết, thấm nhuần sâu sắc, nhuần nhuyễn tư tưởng đổi mới, quan điểm chỉ đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước, tác giả đã giải nghĩa những nội dung cơ bản nhất của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – một đề tài đang được rất nhiều người quan tâm hiện nay.
 
Tại tọa đàm, TSKH. Phan Xuân Dũng chia sẻ, chúng ta đang sống trong thế giới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, mà ở đó mọi sự thay đổi diễn ra một cách mau lẹ và năng động. Đó là cuộc cách mạng dựa trên các công nghệ nền tảng: dữ liệu lớn, điện toán đám mây, các robot thông minh và internet kết nối vạn vật…, là cuộc cách mạng được đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa thế giới thực và ảo của các lĩnh vực như công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, người máy, tích hợp con người – máy móc… Một thế giới mà sự phân loại các công nghệ chỉ là tương đối, khó mà tách biệt với nhau vì chúng quyện lẫn với nhau, tích hợp với nhau, hỗ trợ nhau để cùng phát triển. Vì thế mà cuốn sách mới đặt tên là “Cuộc cách mạng của sự hội tụ”. Bối cảnh ra đời và thực tế đang diễn đã chứng minh mục đích cuộc cách mạng này là tiết kiệm trí tuệ và sức lao động, thời gian và không gian, tài nguyên và môi trường…cũng chính vì lẽ đó mà chúng tôi gọi cuộc cách mạng công nghiệp lần này là “cuộc cách mạng của sự tiết kiệm”.
 
Thông qua cuốn sách, tác giả mong muốn truyền tải câu chuyện về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hàm chứa sự thay đổi lớn lao, toàn diện, không chỉ về KH&CN mà còn cả kinh tế, văn hóa và xã hội. Với mong muốn câu chuyện sẽ là nguồn động lực thúc đẩy tư tưởng đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp và hội nhập trong giới trẻ Việt Nam hiện nay, những con người sẽ chiếm lĩnh cơ hội mới, rút ngắn khoảng cách và bắt kịp các quốc gia phát triển khác về trình độ công nghệ, về khoa học kĩ thuật, nâng cao vị thế quốc gia, đưa Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
 
Tin, ảnh: Đăng Minh

Việt Nam tiệm cận tiềm năng phát triển Cách mạng công nghiệp 4.0

 
Thông tin được ông Đàm Bạch Dương – Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao – Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ tại buổi họp báo thường kỳ Quý I tổ chức chiều 10/4 tại Hà Nội.
 
Buổi họp báo được điều hành bởi Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc với sự tham dự của một số đơn vị chức năng của Bộ; các đơn vị báo chí thuộc Bộ KH&CN cùng đại diện gần 60 cơ quan thông tấn, báo chí.
 
Chia sẻ tại buổi họp báo, Thứ trưởng Phạm Công Tạc đã thông tin về các hoạt động đã được Bộ triển khai trong quý I cũng như những công việc sẽ triển khai trong thời gian tới. Tại phần hỏi và trả lời, nhiều câu hỏi đã được các nhà báo đưa ra như sự vào cuộc của Việt Nam với cuộc cách mạng 4.0; cơ chế tài chính đối với Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST); tình hình giải ngân của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; sở hữu trí tuệ, kiểm định chất lượng thiết bị tiết kiệm điện… đã được đại diện các đơn vị chức năng giải đáp thỏa đáng.
 
Thứ trưởng Phạm Công Tạc điều hành buổi họp báo. Ảnh: Ngũ Hiệp.
 
Theo đó liên quan đến câu hỏi về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai "Readiness for the Future of Production Report 2018" do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) mới công bố, trong tổng số 100 quốc gia được đánh giá, nhiều báo chí đã dẫn thông tin Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ông Đàm Bạch Dương – Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao, Bộ KH&CN khẳng định cần phải có cái nhìn trên các chỉ tiêu tổng hòa.
 
Cụ thể báo cáo được xây dựng trên 2 nhóm chỉ số chính, nhóm cấu trúc sản xuất (có 3 chỉ tiêu), yếu tố dẫn dắt sản xuất (59 chỉ tiêu – trong đó công nghệ và đổi mới sáng tạo chiếm 17 chỉ tiêu).
 
Theo ông Dương, mỗi chỉ số có mức xếp hạng riêng nhưng quan trọng là phải nhìn yếu tố tổng hòa các chỉ tiêu này. Cụ thể trong 100 quốc gia được WEF điều tra có thể chia tạm thành 4 nhóm (Nhóm 1 là nhóm dẫn dắt; nhóm 2 là có tiềm năng cao; nhóm 3 là nhóm di sản có nguy cơ tụt hậu; nhóm 4 là sơ khai – chuẩn bị chưa tốt, điều kiện hiện trạng chưa sẵn sàng) thì Việt Nam đang ở nhóm 4.
 
"Trong tổng số 62 nhóm chỉ tiêu thì mỗi nhóm chỉ tiêu có mức xếp hạng riêng. Nhưng nhìn trong chỉ số tổng hòa thì cấu trúc sản xuất Việt Nam xếp 48/100, chỉ tiêu dẫn dắt sản xuất Việt Nam xếp 53/100. Như vậy nếu nhìn chỉ số này không đến nỗi tệ. Nếu chiếu các con số này trên biểu đồ hình sin thì Việt Nam thuộc nước tiệm cận với nhóm quốc gia có tiềm năng trong giai đoạn tới" – ông Dương nói.
 
Bổ sung thêm thông tin này ông Bùi Thế Duy – Chánh Văn phòng Bộ KH&CN, cho rằng về trình độ công nghệ có những đánh giá khác nhau, báo cáo này đánh giá sâu về sản xuất. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận hiện năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt còn hạn chế. Theo đó trong các chỉ đạo tại Nghị quyết Trung ương 5 của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng và Nghị quyết 27 của Chính phủ đều có định hướng là sẽ nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.
 
Liên quan đến câu hỏi về cơ chế tài chính tại VKIST, ông Bùi Thế Duy khẳng định mặc dù cán bộ VKIST sẽ được hưởng cơ chế đặc thù. Tức là khi làm việc ở VKIST, nhà nghiên cứu nhận được hai khoản hỗ trợ, một là từ ngân sách Việt Nam và hai là từ Hàn Quốc.
 
Ông Duy cho biết thêm, thời gian qua, ông Kum Donghwa – Viện trưởng VKIST đã kết nối nhiều chuyên gia hàng đầu Hàn Quốc và thế giới sang Việt Nam tập huấn cho không chỉ cán bộ Bộ Khoa học và Công nghệ mà còn cả những doanh nghiệp. Hiện Viện trưởng có triết lý xây dựng viện tương đối bài bản và chỉnh chu trong tuyển người, đào tạo. Để sau khi kết thúc viện trợ từ Hàn Quốc, VKIST có thể chủ động nghiên cứu và tạo nguồn thu từ doanh nghiệp, đảm bảo thu nhập cho nhà khoa học, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu tại Viện" – ông Duy nói.
 
Trong Quý I, Bộ KH&CN đã hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2018/NĐ-CP ngày 10/01/2018 quy định cơ chế ưu đãi đối với Khu CNC Đà Nẵng; Quyết định số 76/QĐ-TTg ngày 16/01/2018 ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ KH&CN; Quyết định số 08/2018/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo trực thuộc Bộ KH&CN.
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ký ban hành Quyết định 365/QĐ-BKHCN ngày 26/02/2018 về việc phê duyệt Danh mục Dự án KH&CN bắt đầu thực hiện từ năm 2018 thuộc sản phẩm quốc gia "Sản xuất vắc-xin phòng bệnh cho vật nuôi của Việt Nam";…
 
Nhiều sự kiện quan trọng đã được tổ chức như: chính thức khởi động Đề án “Hệ tri thức Việt số hoá”; Hội nghị Tổng kết công tác năm 2017 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2018; ký kết Chương trình phối hợp hoạt động giai đoạn 2018-2025 với tỉnh Quảng Nam; Ngày hội đầu tư “Demo Day 2018”; lễ Khánh thành Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KH&CN trực thuộc Bộ KH&CN Lào và ký Biên bản bàn giao giữa Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ KH&CN Lào; Lễ động thổ xây dựng Viện KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST);…
 
Theo kế hoạch, dự kiến trong Quý II/2018, bên cạnh việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách pháp luật về KH&CN, Bộ KH&CN sẽ tổ chức các chuỗi sự kiện chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5): Kỷ niệm Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 26/4; Lễ trao Giải thưởng Chất lượng Quốc gia và Giải thưởng Chất lượng Quốc tế Châu Á – Thái Bình Dương năm 2017; Ra mắt Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; hội nghị Giao ban KH&CN vùng Trung du và Miền núi phía Bắc; hội nghị Giao ban KH&CN vùng Bắc Trung Bộ; Lễ trao Giải thưởng sáng kiến vì cộng đồng; Lễ trao Giải thưởng báo chí về KH&CN 2017; Lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu; Hội nghị thường niên lần thứ 16 Liên hợp Thư viện Việt Nam về nguồn tin KH&CN;…
 
Phương Nguyên

IPP2 hỗ trợ đào tạo giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại Huế

 
Ngày 27/3/2018, Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan giai đoạn 2 (IPP2) đã phối hợp với Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (HueIC) tổ chức Lễ tốt nghiệp và trao chứng chỉ cho 34 học viên hoàn thành Khóa đào tạo giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp (ToT2-Huế). Đây là khóa đào tạo cuối cùng được IPP2 hỗ trợ trong chuỗi các hoạt động liên kết nhân rộng mô hình đào tạo giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp của Chương trình. Học viên khóa ToT2-Huế đến từ 14 trường đại học, cao đẳng ở cả 3 miền trong cả nước, chủ yếu là khu vực miền Trung.
Khóa đào tạo được tổ chức tại Trung tâm Sáng tạo mới khai trương của Huế IC
Với nỗ lực phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bền vững cho Việt Nam, IPP2 đã thực hiện nhiều hoạt động xây dựng năng lực theo tiêu chuẩn quốc tế cho các cá nhân, tổ chức và trường đại học tại Việt Nam. Với 5 khóa đào tạo dành cho giảng viên các trường đại học được tổ chức liên tục từ năm 2016 tới nay, IPP2 đã hỗ trợ đào tạo hơn 150 giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp đến từ 50 trường đại học, cao đẳng và tổ chức giáo dục trên toàn quốc. Các khóa đào tạo được thực hiện trên cơ sở Chương trình đào tạo khung về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp do IPP2 phát triển cũng như một số chương trình liên quan đã từng triển khai tại Phần Lan và Hoa Kỳ với trọng tâm cung cấp các kiến thức, kỹ năng, công cụ và phương pháp giảng dạy về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.
 
Khoá ToT2-Huế gồm 8 ngày đào tạo tập trung (Bootcamp) diễn ra từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 3 năm 2018 tại Trung tâm Sáng tạo tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế. Tham gia giảng dạy cho khoá đào tạo là 3 giảng viên quốc tế với nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy và tư vấn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, trong 8 ngày Bootcamp còn có nhiều diễn giả khách mời là doanh nhân khởi nghiệp, nhà đầu tư, chuyên gia xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp tới chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận cùng các học viên.
 
Sau khi hoàn thành Bootcamp, các học viên khóa ToT2 Huế sẽ được hỗ trợ trong vòng 2 tháng để có thể thực hành xây dựng và triển khai chương trình đào tạo về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp cho riêng đơn vị mình dưới nhiều hình thức, phù hợp với định hướng và điều kiện của từng đơn vị. Họ sẽ là những hạt nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững và lành mạnh hệ sinh thái khởi nghiệp của các trường đại học, cao đẳng khu vực miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung.
 
Khóa đào tạo giảng viên nguồn đầu tiên về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo của IPP2 được thực hiện trong năm 2016, với sự tham gia của 11 trường đại học lớn của Việt Nam, trong đó Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế là trường cao đẳng duy nhất được lựa chọn cùng với các trường đại học lớn khác như Đại học Ngoại thương, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh,… Với quyết tâm chính trị và sự ủng hộ của lãnh đạo nhà trường, với tâm huyết, trách nhiệm và năng lực thực sự của nhóm giảng viên tham gia các hoạt động hợp tác với IPP2, Trường Cao đẳng công nghiệp Huế trên thực tế là một lựa chọn thành công của Chương trình. Bài học đối với IPP2 là, ở bất kỳ công việc nào trên con đường phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam, nhân tố con người vẫn là quan trọng nhất.
 
Năm 2018, Chương trình IPP2 tiếp tục đồng hành với Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế như một trong các đối tác tiềm năng ở Việt Nam để nhân rộng mô hình đào tạo giảng viên về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Trước đó, IPP2 đã phối hợp với Saigon Innovation Hub (SIHUB) thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh tổ chức khóa nhân rộng đầu tiên dành cho các giảng viên đến từ trường đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh; khóa thứ hai phối hợp với Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Ngoại thương dành cho các trường khu vực phía Bắc; khóa thứ ba kết hợp với Vườn ươm Doanh nghiệp Đà Nẵng (DNES) dành cho các đại học trên địa bàn Đà Nẵng. Với Trường Cao đẳng công nghiệp Huế, đây là khóa đào tạo thứ tư cũng là khóa cuối cùng trong năm 2018 dựa trên mô hình đào tạo và sự trợ giúp của IPP2 về giảng viên quốc tế đến từ Phần Lan và Hoa Kỳ. Đây là bước chuẩn bị có ý nghĩa của IPP2 hướng tới sự bền vững trong hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo của các trường, vì trong tương lai gần, các trường đại học và cao đẳng Việt Nam đều có trách nhiệm triển khai Chương trình 1665 của Chính phủ về hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành cuối năm 2017.
 
 
 
Danh sách các trường tham gia Khóa ToT2 Huế 2017
 
Trường Đại học Cần Thơ
 
Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh
 
Trường Đại học Nha Trang
 
Trường Đại học Đà Lạt
 
Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng
 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế
 
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế
 
Trường Cao đẳng Công thương Miền Trung
 
Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế
 
Trường Cao đẳng Giao thông Huế
 
Trường Cao đẳng Du lịch Huế
 
Trường Cao đằng Sư phạm Thừa Thiên Huế
 
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghiệp Bắc Giang
 
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Trị
 
Nguồn: IPP2 – HueIC


Nguồn: IPP2 – HueIC

Khu Công nghệ cao Hòa Lạc đón nhận thêm gần 1.500 tỷ đồng của nhà đầu tư mới

Ngày 27/3/2018, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao (CNC) Hòa Lạc tổ chức Lễ công bố và trao Quyết định chủ trương đầu tư Dự án Trung tâm nghiên cứu và phát triển phần mềm Itera cho Công ty Cổ phần Hệ thống Công nghệ ETC.
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN, Trưởng ban Quản lý khu Công nghệ cao Hòa Lạc Phạm Đại Dương trao Quyết định đầu tư cho công ty ETC.
Theo đó, Dự án Trung tâm nghiên cứu và phát triển phần mềm Itera với diện tích 3,86 ha thuộc Khu Phần mềm, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc. Thời gian xây dựng Dự án được chia làm hai giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2023 với tổng vốn đầu tư là 1.479, 5 tỷ đồng (Một ngàn bốn trăn trăm bảy mươi chín phẩy năm tỷ đồng). Sau khi hoàn thành, Dự án sẽ thu hút trên gần 6.000 lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin nói chung và phần mềm nói riêng.
Với Dự án Itera, nhà đầu tư đặt mục tiêu xây dựng một tổ hợp công nghệ cao thực hiện sản xuất, cung ứng, hỗ trợ và thúc đẩy việc sử dụng phần mềm công nghệ cao trong các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.
Thứ trưởng Bộ KH&CN, Trưởng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Hòa Lạc Phạm Đại Dương phát biểu tại Lễ trao Quyết định đầu tư.
Phát biểu tại Lễ công bố và trao Quyết định, Thứ trưởng Bộ KH&CN, Trưởng Ban Quản lý Khu CNC Hòa Lạc Phạm Đại Dương đã chúc mừng và khẳng định thành công của ETC cũng là thành công của Khu CNC Hòa Lạc. Thứ trưởng Phạm Đại Dương yêu cầu ETC thực hiện đúng nội dung cam kết về quy mô, diện tích, tiến độ. ETC cần định hướng công nghệ đầu tư trong thời gian tới như công nghệ tính toán hiệu năng cao, công nghệ điện toán đám mây… để cung cấp các dịch vụ theo xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Về phía Ban quản lý Khu CNC Hòa Lạc, Thứ trưởng Phạm Đại Dương yêu cầu các Ban chuyên môn của Khu phối hợp tạo điều kiện thuận lợi nhất đối với nhà đầu tư, chung tay xây dựng Khu CNC Hòa Lạc là thành phố khoa học, thành phố kiểu mẫu đúng như Thủ tướng đã kỳ vọng.
Ông Hà Mạnh Hùng – Tổng Giám đốc ETC cho biết hiện Công ty đã có những sản phẩm nền móng để phát triển đầu tư tại Khu CNC Hòa Lạc như phần mềm tính toán, giám sát, nhận diện hình ảnh, các hệ thống. Ông Hà Mạnh Hùng cũng cam kết phát triển công nghệ theo xu hướng bền vững, tận dụng không gian xanh và tài nguyên hiệu quả.
Tại Lễ công bố và trao Quyết định đầu tư, Công ty ETC cho biết, hoạt động của Dự án sẽ tập trung vào việc nghiên cứu đưa những công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực phần mềm trên thế giới triển khai áp dụng cho các phần mềm quản lý điều hành, vận hành sản xuất, phát triển khách hàng, cung cấp dịch vụ và đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của các cơ quan quản lý và doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nhà nước, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, giao thông vận tải, dịch vụ công.
Các công nghệ được nhà đầu tư tập trung đầu tư bao gồm trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, phân tích dự báo, tính toán hiệu năng cao, điện toán đám mây, phần mềm nhúng, IoT và một số công nghệ nền tảng hỗ trợ, phát triển theo xu hướng cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là các công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo Quyết định số 66/2014/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Thị trường mục tiêu của dự án ưu tiên tiêu thụ trong nước, tạo nguồn cung tại chỗ thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của cơ quan quản lý và doanh nghiệp, hướng tới phát triển thương hiệu mạnh.
Tính đến thời điểm hiện tại đã có 83 dự án được chấp thuận đầu tư vào Khu Công nghệ cao Hòa Lạc với Tổng vốn đầu tư đăng ký là 3,3 tỷ đô la Mỹ trên diện tích khoảng 300 hecta. Tổng số người lao động và làm việc tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc là 15.000 người.
Dự án được đầu tư tại Khu phần mềm – nơi được mệnh danh là trái tim của Khu công nghệ cao Hòa Lạc, với diện tích khoảng 70 ha. Toàn bộ khu phần mềm là bán đảo được bao bọc bởi hồ Tân Xã có diện tích khoảng 140ha. Thừa hưởng cảnh quan thiên nhiên xanh  mát và trong lành sẵn có, khu phần mềm nói riêng, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc nói chung tiện lợi về vị trí, hoàn hảo về cảnh quan. Đây có thể xem là biểu tượng cho không gian sống và làm việc hàng đầu của Việt Nam, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Khu phần mềm quy hoạch gồm 8 làng công nghệ, được thiết kế theo ý tưởng kiến trúc làng truyền thống đồng bằng Bắc bộ nhằm khai thác những không gian sinh hoạt cộng đồng đáp ứng diện tích linh hoạt, phù hợp với khả năng tài chính của các doanh nghiệp phần mềm. Khu phần mềm được Công ty TNHH Một thành viên phát triển Khu Công nghệ cao Hòa Lạc (công ty HHPD), doanh nghiệp trực thuộc Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Hòa Lạc đầu tư hoàn chỉnh, với hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng các công trình tiện ích, dịch vụ đồng bộ. Mọi nhu cầu của nhà đầu tư và người lao động được đáp ứng một cách linh hoạt và trọn vẹn từ: bãi đỗ xe sinh thái 1.7 ha, quảng trường hơn 1 ha có khả năng tổ chức sự  kiện tầm cỡ quốc gia cho hàng nghìn khách tham dự, nhà đa năng với 700 chỗ ngồi, nơi tổ chức hội thảo, triển lãm, các hoạt động văn hóa cộng đồng cho đến chuỗi nhà hàng, quán cà phê, trung tâm dịch vụ thể thao hiện đại….Tất cả mang lại nhiều tiện ích cho các doanh nghiệp phần mềm. Hạ tầng Khu phần mềm đang được công ty HHPD triển khai đúng quy hoạch và tiến độ, đáp ứng nhu cầu tốt nhất của các nhà đầu tư.
Dự án dự kiến bao gồm: Khu phát triển phần mềm phổ thông bao gồm một tòa nhà 06 tầng, một tòa nhà 20 tầng, Khu nghiên cứu phát triển phần mềm công nghệ cao, trung tâm giới thiệu và hỗ trợ sản phẩm, Khu trung tâm dữ liệu và các khu vực nhà nghỉ, nhà ăn cho chuyên gia với diện tích xây dựng tổng cộng dự kiến khoảng 14.400 m2, diện tích sàn xây dựng dự kiến khoảng hơn 100.000 m2. Sau khi Dự án đi vào giai đoạn ổn định, doanh thu dự kiến mang lại là khoảng 1.700 tỷ đồng/năm.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Việt Nam – Cuba thắt chặt hợp tác truyền thống và phát triển KH&CN

 
Nhân chuyến thăm Cộng hòa Cuba của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng Đoàn đại biểu cấp cao từ ngày 28-30/3/2018, Đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã có chuyến thăm và làm việc với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba và một số đơn vị thuộc Bộ.
Lễ ký kết Bản ghi nhớ giữa Bộ KH&CN Việt Nam với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba về tăng cường hợp tác KH&CN (Nguồn: TTXVN).
Chuyến thăm và làm việc lần này là hoạt động quan trọng để hai Bên tái khẳng định sự cần thiết tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực KH&CN giữa hai nước. Đồng thời, đánh giá các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực KH&CN thời gian qua và trao đổi một số nội dung hợp tác mới thuộc các lĩnh vực: phát triển Khu công nghệ cao, chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Hợp tác phát triển KH&CN trong tình hình mới
Cuba là đối tác truyền thống của Việt Nam, hai nước đã ký Hiệp định khung về hợp tác khoa học – kỹ thuật ở cấp Chính phủ năm 1997. Tại Kỳ họp lần thứ 35 Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam – Cu ba được tổ chức vào tháng 10/2017 tại Hà Nội, hai Bên khẳng định tầm quan trọng của hợp tác trong lĩnh vực KH&CN giữa hai nước, đặc biệt xác định KH&CN giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế – xã hội và phục vụ lợi ích dân sinh. Theo đó, Việt Nam và Cuba cần phải tăng cường hơn nữa hợp tác để đưa nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN vào đời sống, mang lại lợi ích cho cộng đồng khoa học và nhân dân hai nước.
Trong chương trình thăm cấp Nhà nước Cộng hòa Cuba, tối 29/3/2018 (theo giờ địa phương), tại Cung Cách mạng ở Thủ đô La Habana, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Cuba Raul Castro Ruz đã chứng kiến Lễ ký kết Bản ghi nhớ giữa Bộ KH&CN Việt Nam với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba về tăng cường hợp tác KH&CN. Đây là Thỏa thuận hợp tác để cụ thể hóa các nội dung của Hiệp định cấp Chính phủ được ký năm 1997 nhằm đáp ứng được các thay đổi và nhu cầu hợp tác của hai nước trong tình hình mới.
Theo nội dung Bản ghi nhớ, hai bên sẽ thống nhất các hình thức hợp tác nghiên cứu, phát triển khoa học và chuyển giao công nghệ. Cụ thể, hai bên sẽ: thúc đẩy hợp tác KH&CN; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu chung và nghiên cứu khoa học liên quan đến quy trình công nghiệp của hai nước, chú trọng đến bảo vệ môi trường; thúc đẩy sự tham gia của các nhà nghiên cứu trẻ và đào tạo nhân lực; ứng dụng các kết quả nghiên cứu chung về KH&CN vào công nghiệp…
Để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam và Cuba sẽ đẩy mạnh xây dựng các dự án nghiên cứu chung giữa hai nước. Cùng với đó là khuyến khích tăng cường hoạt động hợp tác KH&CN giữa hai nước thông qua đào tạo nhân lực, tổ chức hội thảo và diễn đàn KH&CN. Đồng thời, hai bên sẽ tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu của các cơ quan, trường đại học, doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu khác của Việt Nam trao đổi học thuật, chia sẻ thông tin và chia sẻ kinh nghiệm.
Thời gian tới hai bên xác định các lĩnh vực ưu tiên hợp tác gồm: công nghệ sinh học trong nông nghiệp và y tế, công nghệ thông tin và truyền thông, năng lượng tái tạo, đa dạng sinh học, quy hoạch xây dựng, y học hạt nhân, quản lý và hợp tác giữa các khu công nghệ cao và các lĩnh vực hợp tác khác có thể phát sinh trong quá trình hợp tác.
Khai thác thế mạnh mỗi bên
Trước đó, chiều cùng ngày 29/3, tại La Habana cũng đã diễn ra tọa đàm song phương cấp Bộ trưởng giữa Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Khoa học, Công nghệ Môi tường Cuba.
Tọa đàm song phương cấp Bộ trưởng giữa Bộ KH&CN Việt Nam với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba.
Tham dự Tọa đàm về phía Việt Nam có Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh cùng đại diện Lãnh đạo Văn phòng Bộ KH&CN, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, Cục Sở hữu trí tuệ và các cán bộ có liên quan. Về phía Cuba có Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba Elba Rosa Pérez Montoya cùng đại diện lãnh đạo: Văn phòng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba; Vụ Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba và cán bộ Vụ Quan hệ quốc tế Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba.
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh khẳng định việc đoàn đại biểu Bộ KH&CN Việt Nam sang thăm Cuba và tham dự Tọa đàm cấp Bộ trưởng giữa hai nước lần này là một sự kiện quan trọng trong hợp tác KH&CN nói riêng và trong hợp tác truyền thống giữa hai nước nói chung. Sự kiện này càng có ý nghĩa hơn khi hai nước vừa tổ chức kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cuba (1960-2015), Việt Nam tổ chức thành công Đại hội Đảng năm 2016, và Cuba tổ chức thành công bầu cử lập pháp nhằm chọn ra 605 đại biểu Quốc hội và 1.265 đại biểu cho 15 hội đồng tỉnh tháng 3/2018.
“Mặc dù hai nước chúng ta xa cách về địa lý nhưng lại rất gần gũi trong tình cảm và ý chí cách mạng. Ở Việt Nam khi nhắc đến hai từ Cuba mỗi người Việt Nam khâm phục tinh thần cách mạng, ý chí kiên cường và vượt qua mọi khó khăn và thách thức của thời đại. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng từ nay và mãi mãi về sau quan hệ hai nước chúng ta ngày càng thắt chặt vì nó đã được được thử thách qua năm tháng”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh bày tỏ.
Trong thời gian qua Việt Nam và Cuba đã tiến hành một số dự án hợp tác nghiên cứu chung. Những dự án này đã thành công về mặt khoa học và có ý nghĩa góp phần phát triển kinh tế và xã hội. Ví dụ như: Dự án “Nghiên cứu chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam và Cuba phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, trong bối cảnh quá trình nâng cấp mô hình kinh tế của Cuba và tiến trình đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam”, Dự án “Giải pháp quy hoạch xây dựng và quản lý quy hoạch nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực phát triển Khu kinh tế ven biển”, Dự án “Hợp tác nghiên cứu sản xuất kháng nguyên vắc xin ho gà (PTg, FHA và Prn2) bằng công nghệ đột biến gen để sử dụng pha chế vắc xin ho gà vô bào”, Dự án “Hợp tác cùng phát triển vắc xin thương hàn vi Polysaccharide phòng bệnh Tifus”.
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng, tiềm năng hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực KH&CN còn rất lớn, Việt Nam có nhiều thế mạnh KH&CN trong các ngành nông nghiệp (lúa gạo, cà phê, thủy sản…), viễn thông, xây dựng và vật liệu xây dựng, năng lượng nguyên tử, phát triển các khu công nghệ cao. Ngược lại, Cuba có thế mạnh lớn trong y tế, công nghệ sinh học, công nghệ dược phẩm dược phẩm và quy hoạch du lịch. 
Do vậy, nhằm khai thác thế mạnh về công nghệ của hai nước, hai bên cần tập trung xây dựng các dự án hợp tác mà hai bên có thế mạnh như: công nghệ sinh học, công nghệ sinh học áp dụng trong y tế, nông nghiệp, năng lượng nguyên tử, phát triển Khu công nghệ cao… nhằm phục vụ cho sự phát triển về kinh tế – xã hội của hai nước.
Tại Tọa đàm, hai bên đã điểm lại những dự án hợp tác trong thời gian qua và định hướng hợp tác trong thời gian tới. Bên cạnh đó, hai bên cùng trao đổi về phương thức để hợp tác giữa hai nước hiệu quả và thiết thực vì lợi ích chung. Về hợp tác trong thời gian tới, ngoài khuôn khổ dự án, đề tài hợp tác chung đang tiến hành, hai bên sẽ đa dạng hóa các hình thức hợp tác như thường xuyên trao đổi đoàn công tác, trao đổi kinh nghiệm quản lý và tổ chức hội thảo khoa học.
Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) và Cơ quan năng lượng nguyên tử Cuba (AENTA) đã ký Bản ghi nhớ hợp tác thực hiện Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật để đưa vào vận hành thiết bị chiếu xạ đặt tại Viện Nghiên cứu công nghiệp thực phẩm (IIIA) và hỗ trợ Cuba phát triển năng lực quốc gia về ứng dụng các công nghệ bức xạ”.
Trong khuôn khổ Tọa đàm, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) và Cơ quan năng lượng nguyên tử Cuba (AENTA) đã ký Bản ghi nhớ hợp tác thực hiện Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật để đưa vào vận hành thiết bị chiếu xạ đặt tại Viện Nghiên cứu công nghiệp thực phẩm (IIIA) và hỗ trợ Cuba phát triển năng lực quốc gia về ứng dụng các công nghệ bức xạ”. Việt Nam sẽ giúp Cuba đưa vào vận hành thiết bị chiếu xạ an toàn, hiệu quả và đào tạo các kỹ thuật viên Cuba vận hành tốt hệ thống, đồng thời giúp đỡ Cuba phát triển năng lực quốc gia về ứng dụng các kỹ thuật chiếu xạ.
Được biết, trong khuôn khổ chuyến thăm Cuba lần này, Đoàn Bộ KH&CN Việt Nam cũng đã làm việc với: Trung tâm Công nghệ sinh học và công nghệ Gen (CIGB) Cuba; Vụ Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba; Đặc Khu kinh tế Mariel; Trung tâm Công nghệ Nano; Tập đoàn Công nghệ sinh học BioCuba Farma.
Đại diện Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba chụp ảnh lưu niệm.
Nguồn: Vụ Hợp tác Quốc tế; Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Thương mại hoá kết quả nghiên cứu và “món quà” tặng cho nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân

 
Làm sao để thương mại hoá kết quả nghiên cứu, chấm dứt tình trạng các nghiên cứu nằm yên trong ngăn kéo, hiệu quả các nghiên cứu khoa học như thế nào… là những vấn đề được đại biểu quan tâm chất vấn người đứng đầu Bộ KH&CN trong phiên họp chiều 19-3.
 
Trong khuôn khổ phiên họp thứ 22 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chiều 19-3, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh đã đăng đàn trả lời chất vấn về một số nội dung chính như hiệu quả ứng dụng kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học trong thực tế đời sống xã hội; công tác kiểm soát nhập khẩu công nghệ trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ; ứng dụng KH&CN thúc đẩy tăng năng suất lao động; ứng dụng công nghệ cao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội…
 
Dự phiên chất vấn có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cùng nhiều Bộ trưởng, trưởng ngành. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành phiên họp.
 
"Làm sao để thương mại hoá kết quả nghiên cứu, chấm dứt tình trạng các nghiên cứu nằm yên trong ngăn kéo" là câu hỏi được đại biểu (ĐB) Phùng Đức Tiến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường nêu ra cho người đứng đầu Bộ KH&CN.
 
Thừa nhận đây là “một hạn chế xuyên suốt”, là nỗi trăn trở của nhiều thế hệ lãnh đạo ngành KH&CN, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết Bộ KH&CN đã nỗ lực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện hành lang pháp lý; quyết liệt triển khai nhiều nhiệm vụ, giải pháp để đưa KH&CN gắn kết và phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường kết nối giữa viện, trường với doanh nghiệp để chuyển giao, thúc đẩy việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị; đưa doanh nghiệp dần trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo.
 
Có cùng mối quan tâm, ĐB Nguyễn Sỹ Cương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại thẳng thắn: “Không phải đến bây giờ mới có chuyện đề tài đút ngăn kéo. Tôi không phủ nhận cố gắng của các Bộ, nhưng thực sự vẫn còn sự lãng phí rất lớn trong lĩnh vực này, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội, rất nhiều đề tài không có tính ứng dụng”.
 
ĐB Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) cũng chất vấn: “Hàng năm, Bộ đã bỏ ra bao nhiêu tiền cho nghiên cứu khoa học? Hiệu quả như thế nào”?
 
Tiếp thu ý kiến của các ĐB, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cam kết sẽ quan tâm đến việc xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, thiết thực hơn. Một giải pháp quan trọng khác là đẩy mạnh xã hội hoá đầu tư cho KH&CN, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Năm 2016, trong tổng kinh phí dành cho hoạt động KH&CN, nguồn chi từ doanh nghiệp đã tăng lên tới 48%. Một số doanh nghiệp đã đầu tư rất lớn cho KH&CN như Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Tập đoàn Dầu khí quốc gia…    
 
Được mời giải trình làm rõ thêm vấn đề, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, giai đoạn 2016-2018, chi ngân sách nhà nước cho KH&CN được đảm bảo ở mức trên 2% tổng chi ngân sách nhà nước.
 
“Không chỉ được đầu tư nhiều hơn, mà cơ chế thanh quyết toán cũng đơn giản hơn, không còn bị kêu ca phàn nàn như trước nữa. Chúng tôi nói vui "món quà" tặng đồng chí nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân ngay trước khi nghỉ hưu là một thông tư liên tịch về vấn đề này theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính, đặt niềm tin nhưng đồng thời trao trách nhiệm lớn hơn cho các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng chia sẻ.
 
Liên kết nguồn tin: http://www.sggp.org.vn/thuong-mai-hoa-ket-qua-nghien-cuu-va-mon-qua-tang-cho-nguyen-bo-truong-nguyen-quan-505597.html
 
Nguồn: Báo Sài gòn giải phóng

Nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản phục vụ phát triển kinh tế – xã hội

 
Ngày 23/3/2018, tại Hà Nội đã diễn ra Phiên họp thứ nhất triển khai thực hiện Quyết định số 562/QĐ-TTg ngày 25/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chương trình phát triển khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học Biển giai đoạn 2017 – 2025” (Chương trình 562).
 
Toàn cảnh Phiên họp.
 
Tham dự có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Công Tạc, đại diện lãnh đạo Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN – đơn vị được giao làm đầu mối); đại diện lãnh đạo các Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Công thương; Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Quốc phòng; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đai học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;… và đại diện lãnh đạo các đơn vị có liên quan thuộc Bộ KH&CN.
 
Tại Phiên họp, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên Nguyễn Thị Thanh Hà công bố nội dung Quyết định số 168/QĐ-BKHCN ngày 29/01/2018 của Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc thành lập Tổ công tác triển khai Chương trình 562. Theo đó thành viên của Tổ công tác gồm: Thứ trưởng Bộ KH&CN, Tổ trưởng Phạm Công Tạc; Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên, thường trực Tổ công tác Nguyễn Thị Thanh Hà; đại diện lãnh đạo cấp Vụ của các Bộ, ban ngành và các đơn vị liên quan Bộ KH&CN.
 
Ngoài ra, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên Nguyễn Thị Thanh Hà giới thiệu nội dung Chương trình 562, gồm 03 mục tiêu, 10 nhiệm vụ và giải pháp được phân công cho 11 Bộ, ngành có liên quan thực hiện, trong đó 03 mục tiêu chung gồm: nâng cao tiềm lực khoa học cơ bản; đến năm 2025 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; nghiên cứu có định hướng để tiếp thu, làm chủ các công nghệ tiên tiến. Công bố nội dung Quyết định số 3585/QĐ-BKHCN ngày 15/12/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN phê duyệt định hướng nghiên cứu ưu tiên các khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học Biển giai đoạn 2017 – 2025; và một số đề xuất định hướng ưu tiên nghiên cứu cơ bản định hướng giai đoạn 2017 – 2025.
 
Thứ trưởng  Phạm Công Tạc phát biểu tại Phiên họp.
 
Phát biểu tại Phiên họp, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cùng chia sẻ với các đại biểu những đóng góp của khoa học cơ bản trong phát triển kinh tế – xã hội thời gian qua. Thứ trưởng đặc biệt lưu ý đến việc tập trung, phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản phù hợp hơn nữa nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trước xu thế hội nhập hiện nay. Đồng thời bày tỏ mong muốn các thành viên trong Tổ công tác Chương trình 562 đưa ra những đề xuất cụ thể theo từng lĩnh vực, cùng thống nhất, quyết tâm triển khai hiệu quả khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học Biển giai đoạn 2017 – 2025.
 
Trong khuôn khổ Phiên họp, các đại biểu đã cùng nhau thảo luận, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc cũng như đề ra các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, định hướng kế hoạch năm 2019 và các năm tiếp theo trong việc thực hiện, triển khai Chương trình 562.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Sắp diễn ra Kỳ họp lần thứ 8 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Moon Che In, vào ngày 22/3/2018 tới, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam phối hợp với Bộ Khoa học và ICT Hàn Quốc (MSIT) tổ chức Kỳ họp lần thứ 8 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (JCM 8) cấp Bộ trưởng.
Tham dự JCM 8, về phía Việt Nam có: ông Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ KH&CN, đại diện Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cùng đại diện các đơn vị quản lý, đơn vị chức năng của Bộ KH&CN. Về phía Hàn Quốc có: ông You Young Min, Bộ trưởng Bộ Khoa học và ICT Hàn Quốc, đại diện Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam, đại diện Văn phòng KOICA tại Việt Nam cùng đại diện các đơn vị quản lý, đơn vị chức năng của Bộ Khoa học và ICT Hàn Quốc.
 
Năm 2014, hai Bên đã tổ chức JCM 7, đến nay các hoạt động hợp tác KH&CN giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã và đang triển khai và đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận trên một số lĩnh vực: Công nghệ cao, ứng dụng và phát triển công nghệ; Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng; Sở hữu trí tuệ; Năng lượng nguyên tử, an toàn hạt nhân; Thông tin, thống kê, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về KH&CN và truyền thông KH&CN; Chính sách KH&CN và đổi mới; Y tế; Nông nghiệp; Thông tin và truyền thông; Hợp tác khoa học và đào tạo; Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
 
Viện VKIST đã chính thức khởi động vào ngày 21/11/2017.
 
Điểm đáng lưu ý là Hàn Quốc đang hỗ trợ Việt Nam triển khai Dự án ODA thành lập Viện KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) nhằm phát triển năng lực KH&CN của Việt Nam. Ngày 18/5/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/NĐ-CP thành lập Viện VKIST. Viện VKIST đã chính thức khởi động vào ngày 21/11/2017 và đã ký nhiều Bản ghi nhớ hợp tác với các tổ chức khoa học, doanh nghiệp trong và ngoài nước về hợp tác phát triển công nghệ, đào tạo và thương mại hóa, làm cơ sở cho việc triển khai các hoạt động cụ thể trong thời gian tới. Bên cạnh việc ký kết các Bản ghi nhớ hợp tác, Viện VKIST đã có nhiều hoạt động trao đổi với các viện, trường ở trong nước để chuẩn bị cho một mạng lưới đổi mới sáng tạo mở cho hoạt động nghiên cứu trong thời gian tới…
 
Tiếp nối những thành tựu đã đạt được từ sau JCM 7, tại JCM 8 hai Bên cùng thảo luận một số nội dung về chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới; điểm lại hoạt động hợp tác KH&CN tử năm 2015 đến nay; đánh giá hiện trạng, tình hình phát triển và định hướng ưu tiên nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và công nghệ sinh học…
 
Đồng thời, tại JCM 8 hai bên tập sẽ trung thảo luận một số nội dung trọng tâm thúc đẩy trong thời gian tới như: Chính sách khoa học và đổi mới, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, phát triển VKIST, lĩnh vực ưu tiên hợp tác giai đoạn 2018-2020, đa dạng hóa hình thức hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác, tăng số lượng và kinh phí cấp cho các đề tài hợp tác nghiên cứu chung giữa hai bên, công nghệ thông tin và cách mạng công nghiệp 4.0; thông tin, thống kê, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về KH&CN và truyền thông khoa học và công nghệ; năng lượng nguyên tử; đo lường…
 
Tại JCM 8, hai bên sẽ ký kết Biên bản Kỳ họp và dự kiến thời gian, địa điểm tổ chức JCM 9./.
 
Nguồn: Vụ Hợp tác Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự trả lời chất vấn nghiêm túc của Bộ trưởng KH&CN

 
Chiều ngày 19/3/2018, tại Phiên họp thứ 22 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thực hiện phân công của Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành phần chất vấn và trả lời chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh về nhóm vấn đề: Hiệu quả ứng dụng kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học trong thực tế đời sống xã hội; công tác kiểm soát nhập khẩu công nghệ trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ; ứng dụng khoa học, công nghệ thúc đẩy tăng năng suất lao động và ứng dụng công nghệ cao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Tới dự và trả lời chất vấn có các đồng chí: đồng chí Vũ Đức Đam – Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Chu Ngọc Anh – Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Đinh Tiến Dũng – Bộ trưởng Bộ Tài chính; đồng chí Trần Tuấn Anh – Bộ trưởng Bộ Công thương; đồng chí Phùng Xuân Nhạ – Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; đồng chí Nguyễn Xuân Cường – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; đồng chí Nguyễn Duy Thăng – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; đồng chí Đặng Thế Vinh – Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước.
 
Tham dự Phiên họp có các cơ quan của Quốc hội gồm: Thường trực Hội đồng dân tộc; thường trực các Ủy ban của Quốc hội; các cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH); đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương.
 
Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, trên cơ sở chất vấn và thảo luận của ĐBQH, qua tổng hợp kiến nghị, ý kiến cử tri, UBTVQH nhận thấy các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) mong muốn được lựa chọn các nhóm vấn đề để được chất vấn và trả lời chất vấn nói trên.
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh trả lời chất vấn.
 
Phát biểu trước khi trả lời chất vấn, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh cho biết, thời gian qua, cùng với các hoạt động giám sát và phản biện, xử lý các kiến nghị của đại biểu và cử tri, Bộ KH&CN luôn coi các trả lời chất vấn của ĐBQH và cử tri là một trong những công việc quan trọng cần tập trung giải quyết. Do vậy các văn bản chất vấn, kiến nghị của chỉnh phủ đều được Bộ trưởng yêu cầu triển khai ngay và có văn bản trả lời kịp thời, đồng thời Bộ KH&CN cũng thường xuyên cập nhật rà soát và cập nhật tình hình triển khai nội dung công việc, báo cáo tại các văn bản trả lời chất vấn, kiến nghị để hoàn thiện, tăng cường tiềm lực và hiệu quả quản lý Nhà nước thuộc trách nhiệm của ngành.
 
Phiên chất vấn hôm nay là cơ hội quý báu để Bộ KH&CN rà soát lại, triển khai chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình để xác định được những bất cập quản lý và quan trọng từ đó tìm ra được biện pháp khắc phục các vấn đề được UBTVQH lựa chọn để chất vấn, đồng thời đây cũng là những việc trọng tâm ngành KH&CN thực hiện triển khai trong thời gian qua. Các ý kiến của các đại biểu đối với Bộ KH&CN có ý nghĩa rất quan trọng để Bộ KH&CN hoàn thiện cơ chế chính sách trong triển khai các nhiệm vụ trong thời gian tới. Bộ KH&CN sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương để khắc phục những vấn đề còn hạn chế, đưa KH&CN trở thành quốc sách hàng đầu và động lực phát triển kinh tế – xã hội.
 
Đẩy mạnh thương mại hóa các kết quả nghiên cứu
 
Mở đầu phiên chất vấn, đại biểu Phùng Đức Tiến đặt câu hỏi đề nghị Bộ trưởng cho biết cơ chế, chính sách trong thời gian tới giúp cho các viện, trường đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Khẳng định đây là trọng tâm công tác và trăn trở của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng một hạn chế xuyên suốt là chậm thương mại hóa các kết quả nghiên cứu đi vào cuộc sống. Vừa qua, Bộ đã tham mưu Thủ tướng và được các bộ ngành liên quan ủng hộ, đó là việc quy định rõ chức năng của Bộ không chỉ quản lý Nhà nước mà còn trực tiếp tham gia trong đổi mới sáng tạo (ĐMST), trong thương mại hoá hoạt động nghiên cứu,… Trong thời gian tới, bên cạnh hoàn thiện các cơ chế, chính sách, Bộ KH&CN sẽ đẩy mạnh liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu với doanh nghiệp để đẩy mạnh quá trình này.
 
Qua khảo sát của Bộ KH&CN ở 2.000 doanh nghiệp, có 35% đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin giúp năng suất lao động tăng 1,7 lần; toàn bộ khối dùng công nghệ từ trung bình đến cao tăng ít nhất 2 lần năng suất lao động.
 
Giải pháp của Bộ KH&CN là là tập trung toàn bộ nội lực, gồm các kết quả nghiên cứu, hỗ trợ chuyển giao công nghệ để nâng cao năng suất, tác động mạnh vào nhóm doanh nghiệp dẫn dắt công nghệ, nhóm doanh nghiệp vệ tinh phụ trợ và nhóm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
 
Tập trung mọi lực lượng nâng cao năng suất lao động
 
Đề cập đến vai trò của khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp trong việc năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đại biểu Bùi Sỹ Lợi đề nghị Bộ trưởng cho biết, những giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao năng suất, chất lượng của tăng trưởng nền kinh tế đất nước?
 
Trả lời câu hỏi của đại biểu Bùi Sĩ Lợi về phát huy vai trò của KH&CN trong việc tăng năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, Bộ trưởng cho biết, tinh thần chung của Chính phủ là tập trung mọi nguồn lực để nâng cao nâng suất lao động. Theo đó, sẽ tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát huy vai trò của KH&CN trong nâng cao năng suất nội ngành; nâng cao chất lượng đào tạo nghề; cải thiện môi trường kinh doanh; phát huy vai trò của doanh nghiệp trong chuyển giao, ứng dụng KHCN; đẩy mạnh khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo;…
 
Dẫn ra chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và cũng là “tinh thần xuyên suốt của các thành viên Chính phủ”, đó là tập trung mọi lực lượng để nâng cao năng suất lao động, vì đây là cơ sở để phát triển bền vững đất nước trong tương lai, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, về năng suất lao động và vai trò của khoa học – công nghệ, chủ trương của Đảng tại các Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết Trung ương 6, Khóa XII và Nghị quyết của QH đã thể hiện rất rõ.
 
Về giải pháp, theo Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, cần tập trung mọi điều kiện từ nội lực, tức là từ các kết quả nghiên cứu phục vụ cho đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh, vào 4 nhóm đối tượng. Một là, nhóm doanh nghiệp dẫn dắt công nghệ, tạo điều kiện để có cơ sở để triển khai nghiên cứu công nghệ. Hai là, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải nhanh chóng nhận chuyển giao khoa học công nghệ để ứng dụng. Ba là, nhóm doanh nghiệp chưa tiếp nhận chuyển biến kết quả nghiên cứu chuyển giao công nghệ. Bốn là, các doanh nghiệp khởi điểm sáng tạo, hiện số lượng này đang tăng nhanh.
 
“Đây là những nhóm giải pháp chúng tôi tập trung thực hiện để thúc đẩy khoa học công nghệ hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nêu rõ.
 
Quyết liệt tháo gỡ khó khăn
 
Trả lời đại biểu Trần Thị Quốc Khánh về giải pháp của Bộ trong việc triển khai thực hiện các Nghị quyết Quốc hội và Chính phủ đã ban hành về môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lưc quốc gia, Bộ trưởng khẳng định, môi trường đầu tư kinh doanh là một trong hai yếu tố nhận được sự quan tâm chỉ đạo mạnh mẽ và quyết liệt của Chính phủ thông qua Nghị quyết 01 và Nghị quyết 19.
 
Trong lĩnh vực KH&CN, thời gian qua Bộ đã vào cuộc 2 năm nay với tinh thần quyết liệt, tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực: Hoàn thiện hóa các tiêu chuẩn, quy chuẩn; phối hợp với các bộ đơn giản hóa các thủ tục kiểm tra chuyên ngành; 100% các thủ tục hành chính đã ứng dụng CNTT ở mức độ cấp 3; về sở hữu trí tuệ, Bộ cũng đã có những chuyển động đáng kể trong thời gian gần đây…
 
Ngoài ra, Bộ KH&CN tiếp tục tham mưu Chính phủ hướng tới hậu kiểm sau thông quan, bên cạnh đó, cơ chế chính sách hướng tới thị trường thực sự, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Những mặt khác như SHTT, công nghệ đã và đang bám chặt chỉ đạo của Chính phủ triển khai Nghị quyết này để có những chuyển động cụ thể trong thời gian tới.
 
Đại biểu Phạm Tất Thắng đặt câu hỏi về đẩy mạnh ứng dụng, nghiên cứu, khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Bộ trưởng cho biết, khoa học xã hội nhân văn thời gian qua đã có những biến chuyển, nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế và thời gian tới sẽ có những thay đổi. Bộ sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để tăng cường sức đóng góp của khoa học xã hội nhân văn trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
 
Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp đạt nhiều kết quả nổi bật
 
Tại phiên chất vấn, ĐBQH Mai Sỹ Diến (Thanh Hóa) chất vấn: “Việc ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành tựu. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ trong sản xuất vẫn còn những tồn tại, bất cập mà các nhà chuyên môn cũng như dư luận phản ánh trong thời gian vừa qua.
 
Với tư cách là người đứng đầu ngành KH&CN phụ trách sự thúc đẩy phát triển khoa học CNC, đề nghị Bộ trưởng cho biết đã chỉ đạo triển khai thực hiện những biện pháp trọng tâm nào để ngăn chặn hành vi lợi dụng đầu tư CNC vào nông nghiệp làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân Việt Nam”.
 
Trả lời câu hỏi của đại biểu Diến, Bộ trưởng Bộ KH&CN – ông Chu Ngọc Anh cho biết, sự quan tâm và chủ trương, chỉ đạo để tăng cường ứng dụng CNC vào trong nông nghiệp đã có thời gian đã lâu, đặc biệt, thời gian gần đây là thông qua Nghị quyết của Chính phủ năm 2017, Thủ tướng trực tiếp có hội nghị để triển khai. Trên thực tế, theo Luật Công nghệ cao, bên cạnh các chương trình và hỗ trợ cụ thể, chúng ta có khái niệm các khu nông nghiệp CNC, trong đó tập trung thu hút các dự án để đầu tư sản xuất CNC.
 
Nền tảng chung, Bộ KH&CN đều chịu trách nhiệm và có phân cấp đối với một số khu và dự án sản xuất nông nghiệp, cả phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sự phối hợp này rất chặt chẽ.
 
Trước hết chặt chẽ về tiêu chí, trên tinh thần của Luật CNC là theo quyết định của Thủ tướng, luật khu vực công nghiệp rất chặt chẽ, 5% lao động, 1% doanh thu chưa kể là tất cả các yêu cầu về CNC tiên tiến, chúng ta mới đáp ứng được các ưu đãi này.
 
Vừa qua trong lĩnh vực nông nghiệp thì đã rất thành công và tác động rất rõ. Không chỉ khu, các tập đoàn khi sang đầu tư lĩnh vực này đã hình thành các chuỗi, đó là CNC, chúng ta đóng góp, có gì có thể nội địa hóa, có gì có thể tự phục vụ được.
 
“Chắc đại biểu nói về ý này, vừa rồi có triển khai gói tín dụng 100 nghìn tỷ, có 273 doanh nghiệp. Chúng tôi đã đặt ra tiêu chí hết sức ngặt nghèo, chúng tôi cho rằng nền tảng cơ bản này thì một là tác động khuyến khích rất là mạnh, thứ hai cũng đúng đối tượng để chúng ta thúc đẩy và khuyến khích. Trên thực tế, đã có những tác động, chuyển động rất mạnh” – Bộ trưởng Chu Ngọc Anh trả lời.
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, đã ra những tiêu chí hết sức ngặt nghèo để đảm bảo khuyến khích và đúng đối tượng khuyến khích khi đầu tư CNC.
 
Cũng liên quan đến câu hỏi của đại biểu Mai Sỹ Diến, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng đã mời Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường trả lời thêm về vấn đề này liên quan đến ứng dụng CNC vào lĩnh vực nông nghiệp hiện nay sản xuất như thế nào? Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, kết quả 30 năm qua chúng ta đã đạt được thành tựu vô cùng to lớn. Việt Nam đã xuất khẩu nông sản đi 185 nước, đáp ứng đủ nhu cầu cho 93 triệu dân, năm vừa qua xuất khẩu 36,52 tỉ USD tiền nông sản, năm nay dự kiến vượt con số 40 tỉ, đó là cố gắng vượt bậc. Do đó có thể khẳng định được KH&CN rất then chốt, quyết định đến tính hiệu quả, tính cạnh tranh nay mai của chúng ta. Trong thời gian tới, biện pháp quyết định nhất là ứng dụng CNC”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định.
 
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, các bộ hiện đang có sự kết hợp rất chặt chẽ với nhau để thúc đẩy việc ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp.
 
Các khu CNC có tác động lan tỏa lớn
 
Đại biểu Đoàn Thị Thanh Mai (Hưng Yên) đã chất vấn Bộ trưởng Chu Ngọc Anh về hiện trạng của Khu nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội) và TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.  Đại biểu này đặt câu hỏi: "Sau nhiều năm hoạt động, kết quả ba khu CNC chưa rõ nét. Vậy giải pháp tháo gỡ để thúc đẩy phát triển đúng mục tiêu đề ra là gì?"
 
Trả lời chất vấn, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, hiện ba khu CNC đã có sự phát triển mạnh. Tại Hoà Lạc đầu tư năm 2016 đạt 13 triệu USD/ha, TP. Hồ Chí Minh là 15 triệu USD/ha. Những con số này lớn hơn rất nhiều so với trước đây.
 
Theo Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, với sự hỗ trợ ODA của Nhật, toàn bộ hạ tầng khu công nghệ cao Hòa Lạc đã được đầu tư và mang lại nhiều kết quả. Nghị định 74 về cơ chế, chính sách đặc thù đối với khu CNC Hoà Lạc cũng đã thúc đẩy xúc tiến đầu tư, tạo ra chuyển động mạnh mẽ từ giai đoạn cuối năm 2017.
 
Bộ trưởng lấy ví dụ, trong Khu công nghệ cao Hòa Lạc đã có những doanh nghiệp tạo ra hệ thống sản xuất các thiết bị điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin…
 
"Hiện các nhà đầu tư lớn ở đây đều là công nghiệp CNC, được xem như là phần cứng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này có tác động lan toả rất lớn", Bộ trưởng nói.
 
Bộ trưởng cũng cho biết thêm, Bộ KH&CN tập trung phát triển các trường đại học, viện nghiên cứu tại cả 3 khu công nghệ cao. Sắp tới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) sẽ động thổ với sự tham dự của Tổng thống Hàn Quốc. Đồng thời, Bộ trưởng cũng hy vọng, trong vài năm tới khu CNC Hòa Lạc sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nữa.
 
Tiếp đó, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh trả lời các đại biểu về các nội dung: Giải pháp ứng dụng KH&CN trong ứng phó với biến đổi khí hậu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; giải pháp khắc phục tình trạng trùng lặp trong giao nhiệm vụ khoa học, công nghệ, gây lãng phí; giải pháp khắc phục tình trạng công trình nghiên cứu "bỏ ngăn kéo"; ngân sách cho lĩnh vực khoa học, công nghệ; thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng xin cho, thiếu khách quan trong phân bổ, đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học; cơ chế, chính sách thúc đẩy các tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ; kết quả ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp; chính sách, giải pháp tạo điều kiện phát huy đam mê sáng tạo, sáng chế của người nông dân đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; giải pháp bảo tồn, khai thác, phát triển các nguồn gen quý của đất nước; giải pháp để thực hiện tốt các mục tiêu khoa học công nghệ trong giai đoạn đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo hiện nay;…
 
UBTVQH đánh giá cao sự trả lời nghiêm túc của Bộ trưởng
 
Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng phát biểu kết luận tại phiên chất vấn với Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh.
 
Kết thúc phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, trong phiên chiều nay có 46 câu hỏi được các đại biểu đăng ký, trong đó có 30 đại biểu đã trực tiếp hỏi và được Bộ trưởng trả lời trực tiếp tại hội trường; 16 đại biểu đã đăng ký, tuy nhiên do thời gian có hạn, chưa được hỏi tại hội trường, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu gửi câu hỏi để Bộ trưởng trả lời bằng văn bản. Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định, phiên chất vấn đã diễn ra sôi nổi, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã trả lời thẳng thắn các nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm.
 
Phó Chủ tịch cho biết, UBTVQH đánh giá cao sự trả lời nghiêm túc của Bộ trưởng Bộ KH&CN; ghi nhận quyết tâm chính trị cùng lời hứa và những giải pháp Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã nêu ra để khắc phục những hạn chế còn tồn tại của KH&CN trong thời gian tới… Phó Chủ tịch Tòng Thị Phóng nhấn mạnh các nhóm vấn đề trong thời gian tới Bộ KH&CN cần tập trung giải quyết, cụ thể: Bộ KH&CN cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho môi trường hoạt động KH&CN và ĐMST. Cần kiểm soát chặt việc nhập khẩu công nghệ và dây chuyền đã qua sử dụng, quan tâm nhiều đến quy chuẩn môi trường. Quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ khoa học, gắn chặt liên kết Viện, trường với các cơ sở khoa học CNC. Cần đảm và phát huy được hiệu quả ngân sách chi cho KH&CN, tiếp tục huy động nguồn lực xã hội cho KH&CN để tăng cường năng lực hấp thụ công nghệ….
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại phiên chất vấn.
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong phần phát biểu của mình đã thay mặt Chính phủ cảm ơn UBTVQH đặt ra nhiều vấn đề quan tâm của ĐBQH và cử tri, thể hiện sự kỳ vọng ngành KH&CN có những bước tiến mới trong giai đoạn gần đây có tiến bộ nhiều hơn. Đặt trong bối cảnh chung và tình hình mặt bằng chung của đất nước, Phó Thủ tướng khẳng định, KH&CN đã có nhiều kết quả tốt. Chỉ số sáng tạo và đổi mới toàn cầu do WIPO công bố năm 2017 cho thấy Việt Nam lần đầu tiên nằm trong Top khu vực, đứng thứ 47/127 nước và nền kinh tế, trong mặt bằng chung KH&CN đã có sự cố gắng. Điều đó cho thấy có sự định hướng đúng đắn của Đảng.
 
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cũng cho biết mặc dù có nhiều thành tựu ghi nhận nhưng nhìn vào báo cáo năng suất chúng ta thấy còn rất thấp so với các nước trong khu vực. Để tăng cường vấn đề này không chỉ riêng sự vào cuộc của KH&CN mà còn phải thay đổi cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu vốn, định hướng về dịch vụ, môi trường, nhân lực KH&CN…
 
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu kết luận phiên họp ngày 19/3.
 
 
Phát biểu bế mạc phiên chất vấn và phiên họp thứ 22 của UBTVQH, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh, các nhóm vấn đề được lựa chọn là những vấn đề quan trọng trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước được cử tri, nhân dân cả nước và các vị ĐBQH quan tâm, cần sớm có những giải pháp xử lý đồng bộ, kịp thời, tạo chuyển biến tích cực trong thời gian tới.
 
Không khí chất vấn, trả lời chất vấn tại phiên họp thể hiện tinh thần dân chủ, trách nhiệm cao, tranh luận sôi nổi. Các vị ĐBQH đã tích cực chất vấn, nêu câu hỏi ngắn gọn, súc tích, rõ vấn đề cần hỏi. Các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đã trả lời thẳng thắn, cầu thị, đi thẳng vào trọng tâm vấn đề; nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá kết quả thực tiễn, nhận rõ hạn chế còn tồn tại thuộc trách nhiệm của mình.
 
Với tinh thần không ngừng đổi mới, UBTVQH đã thực hiện thí điểm một số cải tiến về cách thức tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp này. Qua đó, đã tạo được sự tương tác nhiều hơn giữa người hỏi và người trả lời về vấn đề được chất vấn, nâng cao hơn trách nhiệm của cả người điều hành, người chất vấn và người trả lời chất vấn, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Việc thí điểm này tiếp tục được đánh giá, rút kinh nghiệm để có căn cứ báo cáo Quốc hội cho thực hiện tại kỳ họp thứ 5 tới đây.
 
Để có cơ sở triển khai thực hiện các giải pháp đã cam kết và báo cáo kết quả với Quốc hội tại các kỳ họp, đề nghị Tổng Thư ký Quốc hội sớm gửi thông báo kết luận của UBTVQH về chất vấn đến các cơ quan hữu quan.
 
Đồng thời, đề nghị Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện lời hứa của các Bộ trưởng, Trưởng ngành; tổ chức hoạt động giải trình về những vấn đề cần thiết trong lĩnh vực phụ trách để kịp thời có giải pháp xử lý bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của cử tri và Nhân dân cả nước, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

91% hàng hóa do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý đã được chuyển sang cơ chế hậu kiểm

 
Sáng ngày 15/3/2018, tại Hà Nội, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) – Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC) tổ chức Hội thảo “Kinh nghiệm của Hoa Kỳ về tăng cường hoạt động kiểm tra và giám sát hàng hóa lưu thông trên thị trường”.
 
 
Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Trần Văn Vinh phát biểu tại Hội thảo.
Phát biểu tại Hội thảo, Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Trần Văn Vinh cho biết, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020, Bộ KH&CN đã đẩy mạnh việc chuyển đổi phương thức quản lý sản phẩm hàng hóa thuộc lĩnh vực quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm nhằm tạo ra môi trường thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp. Sau gần 02 năm triển khai quyết liệt, đến nay Bộ KH&CN đã giảm được 91% sản phẩm hàng hóa phải kiểm tra. Cụ thể là 22/24 nhóm sản phẩm do Bộ KH&CN quản lý đã được chuyển sang cơ chế hậu kiểm.
 
Việc chuyển đổi phương thức quản lý sản phẩm hàng hóa từ tiền kiểm sang hậu kiểm đã tạo ra những điều kiện thuận lợi dễ thấy, tuy nhiên vẫn có nhiều người còn đặt câu hỏi có hay không chuyện buông lỏng công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa. Việc đẩy mạnh chuyển đổi phương thức quản lý sản phẩm hàng hóa từ tiền kiểm sang hậu kiểm là một trong những chỉ đạo của Chính phủ nhằm đơn giản hóa thủ tục, hướng tới cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong bối cảnh đó, vai trò của công tác giám sát, kiểm tra sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường là hết sức quan trọng. Tổng cục trưởng Trần Văn Vinh cho rằng, Hội thảo là cơ hội để Việt Nam học hỏi, nâng cao năng lực quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
 
Bà Arlene Flecha chia sẻ tại Hội thảo.
 
Tại Hội thảo, bà Arlene Flecha, Quản lý Chương trình Quốc tế của CPSC đã có những chia sẻ, đánh giá liên quan đến sản phẩm tiêu dùng tại Hoa Kỳ, các yêu cầu về thủ tục và kỹ thuật đối với sản phẩm, vai trò của tiêu chuẩn và quy trình giám sát hàng hóa nhập khẩu, trên thị trường…
 
"Tại Hoa Kỳ, chúng tôi kiểm tra, theo dõi việc tuân thủ tiêu chuẩn sản phẩm tự nguyện và theo quy định, điều tra sự cố của người tiêu dùng, khiếu nại thương mại,… Đặc biệt, có thể kiểm tra vào thời điểm thích hợp bất cứ cơ sở nào có liên quan đến quá trình sản xuất, nhập khẩu, phân phối hay bán sản phẩm tiêu dùng", đại diện của CPSC chia sẻ.
 
Toàn cảnh Hội thảo.
 
Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu tham dự có dịp tìm hiểu về hoạt động đánh giá và quản lý rủi ro sản phẩm hàng hóa tại Hoa Kỳ. Từ đó, đánh giá thực trạng công tác giám sát, kiểm tra hàng hóa của Việt Nam cũng như đưa ra giải pháp phù hợp với tình hình thực tế.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN