Bàn giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính năm 2019

Thứ hai, 15/07/2019 15:45 GMT+7
 
Ngày 12/7, tại Hà Nội, Vụ Tổ chức cán bộ đã tổ chức hội thảo về kết quả Chỉ số cải cách hành chính năm 2018 và phương hướng triển khai xác định Chỉ số cải cách hành chính (CCHC) năm 2019 của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN).
 
Toàn cảnh hội thảo
 
Tại hội thảo, đại diện Vụ Tổ chức cán bộ đã báo cáo về kết quả chỉ số cải cách hành chính năm 2018 của Bộ. Theo kết quả Chỉ số CCHC năm 2018 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX) năm 2018, Bộ KH&CN đứng thứ 7/18 Bộ, cơ quan ngang bộ (tăng 01 bậc so với kết quả năm 2017).
 
Báo cáo cho thấy, Bộ KH&CN có 4 lĩnh vực đạt điểm tối đa gồm lĩnh vực “Chỉ đạo điều hành CCHC”, “Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ”, “Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước”, “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức”.
 
 
Được biết, theo Quyết định số 2636/QĐ-BNV  ngày 10/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành phê duyệt Đề án "Xác định Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương", Bộ tiêu chí xác định Chỉ số CCHC cấp bộ được cấu trúc thành 7 lĩnh vực đánh giá, 39 tiêu chí và 88 tiêu chí thành phần gồm: Công tác chỉ đạo, điều hành: 6 tiêu chí và 6 tiêu chí thành phần; Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ: 7 tiêu chí và 12 tiêu chí thành phần; Cải cách thủ tục hành chính: 5 tiêu chí và 14 tiêu chí thành phần; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước: 4 tiêu chí và 11 tiêu chí thành phần; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức: 8 tiêu chí và 13 tiêu chí thành phần; Cải cách tài chính công: 4 tiêu chí và 14 tiêu chí thành phần; Hiện đại hoá hành chính: 5 tiêu chí và 18 tiêu chí thành phần. Trong tổng số 88 tiêu chí thành phần có 59 tiêu chí các bộ tự chấm và 29 tiêu chí thực hiện qua Điều tra xã hội học.
 
Tại hội thảo, lãnh đạo các đơn vị có liên quan thuộc Bộ, các cán bộ phụ trách công tác CCHC đã đóng góp ý kiến, thảo luận về những khó khăn, vướng mắc và các bài học kinh nghiệm trong công tác CCHC, đồng thời đề xuất các giải pháp, nhiệm vụ cụ thể nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác CCHC của Bộ để phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn trong thời gian tới.
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Cuộc họp NLO nhằm tăng cường hiệu quả dự án hợp tác kỹ thuật khu vực Châu Á Thái Bình Dương

Thứ hai, 15/07/2019 
 
Từ ngày 08-12/7/2019 tại Viên, Cộng hòa Áo, với vai trò cán bộ điều phối quốc gia, bà Trần Bích Ngọc, Phó Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đại diện Việt Nam tham dự Cuộc họp NLO nhằm tăng cường hiệu quả dự án hợp tác kỹ thuật khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
 
Tham dự Cuộc họp có hơn 60 đại biểu đến từ các quốc gia trong khu vực là các cán bộ điều phối quốc gia (NLO) và cán bộ hỗ trợ NLO (NLA), các chuyên gia quản lý dự án của IAEA (PMO), đại diện của Đại sứ quán các nước và các cán bộ có liên quan.
 
Phát biểu khai mạc Cuộc họp, bà Jane Gerardo Abaya, Giám đốc Ban Châu Á Thái Bình Dương, Vụ Hợp tác kỹ thuật của IAEA đánh giá cao sự phối hợp và hợp tác hiệu quả của các NLO trong quá trình triển khai các hoạt động của chương trình, góp phần tạo nên những thành tựu về khoa học công nghệ cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cho quốc gia.
Cuộc họp bao gồm các phiên toàn thể và phiên thảo luận nhóm, nhằm giải quyết các vấn đề chính: giới thiệu thành tựu nổi bật của các quốc gia thành viên đạt được thông qua chương trình hợp tác kỹ thuật (TC); chia sẻ kinh nghiệm về cách thức triển khai và cơ chế phối hợp; thảo luận các vấn đề liên quan nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả của các chương trình này.
Đại diện cho Việt Nam, bà Trần Bích Ngọc đã có bài trình bày giới thiệu về Dự án hợp tác ba bên giữa Việt Nam, IAEA và Lào/Campuchia, nhằm giúp đỡ hai nước láng giềng trong việc xây dựng và phát triển năng lực nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật hạt nhân, an toàn bức xạ và hạt nhân.
 
Trong nhiều năm qua, thông qua hỗ trợ của IAEA trong các dự án TC quốc gia, khu vực và liên khu vực, năng lực của Việt Nam trong các lĩnh vực trên đã được xây dựng và phát triển. Bên cạnh đó, Lào và Campuchia là những quốc gia mới tham gia vào các chương trình TC; vì vậy, thông qua Dự án ba bên, một mặt Việt Nam có thể hỗ trợ IAEA trong việc hướng dẫn Lào và Campuchia xây dựng dự án, một mặt cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho hai nước láng giềng trên cơ sở năng lực kỹ thuật đã phát triển của quốc gia. Dự án này được IAEA rất quan tâm coi như hình mẫu để phổ biến nhân rộng đối với các quốc gia khác trong khu vực.
 
Qua 5 ngày làm việc và thảo luận, Cuộc họp đi đến kết thúc và tổng kết các vấn đề: tóm tắt hành trình đến thành công và bài học kinh nghiệm; xây dựng kế hoạch hành động để tận dụng các đối tác hợp tác hiện có và đối tác tiềm năng; xây dựng kế hoạch hành động để nâng cao hiệu quả chương trình TC.
 
Nguồn: Cục An toàn bức xạ và hạt nhân

Tạo đột phá chiến lược trong phát triển KHCN và đổi mới, sáng tạo ở Việt Nam

 
Nhân Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5), Cổng TTĐT Chính phủ xin trân trọng giới thiệu bài viết của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về định hướng, giải pháp tạo đột phá chiến lược thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới, sáng tạo tại Việt Nam.
Sự phát triển của các học thuyết kinh tế và thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới thời gian qua cho thấy các mô hình tăng trưởng tân cổ điển nhấn mạnh vai trò của tích lũy vốn và lao động đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên luôn có giới hạn và nhân loại đang đứng trước sự khan hiếm tài nguyên nghiêm trọng. Nếu chúng ta vẫn trông chờ vào nguồn tài nguyên hữu hạn đó thì tăng trưởng sẽ sớm cạn kiệt, tăng trưởng sẽ đi đến trạng thái dừng và thậm chí suy giảm. Mô hình tăng trưởng nội sinh (được trao giải Nobel Kinh tế năm 2018) chứng minh rằng, công nghệ là yếu tố nội sinh quan trọng của tăng trưởng. Chính công nghệ cùng với nguồn nhân lực phù hợp (có khả năng sáng tạo, sử dụng và kiểm soát công nghệ mới) là yếu tố quyết định cho tăng trưởng trong dài hạn, là chìa khóa để chúng ta đột phá vượt qua trạng thái dừng, thoát bẫy thu nhập trung bình.
 
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô và mở rộng tín dụng. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ nét thể hiện qua tốc độ tăng năng suất lao động. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên khoảng 43,3% trong giai đoạn 03 năm 2016-2018; giai đoạn 2016-2020 ước đạt 43,5%. Tính chung 10 năm 2011-2020 vượt mục tiêu chiến lược đề ra (35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016-2018 đã tăng lên 5,8%/năm. Đặc biệt năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao kỷ luạt trong 10 năm, đạt trên 7% nhưng  tăng trưởng tín dụng chỉ đạt dưới 14% so với mức 17 -18% của các năm trước đó. Những số liệu này cho thấy nền kinh tế của chúng ta đang có sự chuyển dịch về mô hình tăng trưởng và sự thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. Có thể khẳng định rằng khoa học công nghệ có nhiều tiến bộ, đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 
Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu (GII) của Việt Nam những năm gần đây liên tục tăng cao, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp (năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng tiếp 2 bậc, xếp thứ 45/126 quốc gia, trong đó, nhóm chỉ số về tri thức – công nghệ của Việt Nam có thứ hạng rất cao, thứ 28). Theo Báo cáo Chỉ số Hiệu quả Đổi mới sáng tạo năm 2018, Việt Nam đã đạt kết quả trong việc tiếp cận với kiến thức khoa học, công nghệ của thế giới và hòa nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo điều kiện cho việc trao đổi tri thức hiệu quả. Một số tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam đã rất quan tâm đầu tư cho khoa học – công nghệ (KHCN), đổi mới, sáng tạo; và đã đạt được kết quả tương xứng. Điều này khẳng định tăng trưởng cao và tăng trưởng bao trùm vừa qua có đóng góp rất quan trọng của nhân tố khoa học công nghệ và cố gắng lớn lao của mỗi người Việt Nam chúng ta.
 
Tuy nhiên, phải nhìn thẳng vào thực tiễn và khó khăn, vướng mắc để thấy rằng phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới, sáng tạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập.
 
Trước hết là, nhận thức của các cấp, các ngành và các địa phương về vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo còn chưa đầy đủ, toàn diện. Hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo động lực cho ứng dụng phát triển khoa học công nghệ;
 
Khoa học – công nghệ chưa thực sự là động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế – xã hội, cho tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội. Trình độ Khoa học – công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo của chúng ta còn hạn chế và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, manh mún. Vẫn còn ít hoạt động Nghiên cứu và Phát triển (R&D) trong khu vực doanh nghiệp. Các trường đại học thiên về đào tạo hơn nghiên cứu; nếu có nghiên cứu thì tính ứng dụng không cao; rất thiếu sự kết nối hiệu quả giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và khu vực kinh doanh, dịch vụ công. Chúng ta cũng chưa thực sự có những chính sách tốt, cơ chế tốt, hoặc đặt ra những bài toán hay, đúng tầm để kích thích sáng tạo và sự cống hiến của đông đảo các nhà khoa học và chuyên gia đối với phát triển kinh tế – xã hội nước nhà.
 
Trong những năm gần đây, kinh phí  đầu tư cho khoa học – công nghệ của Việt Nam gia tăng đều qua các năm, tuy nhiên, tỷ lệ chi cho khoa học và công nghệ trên GDP chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Diễn đàn Kinh tế thế giới cũng đánh giá: Việt Nam đang tụt hậu về mức độ sẵn sàng công nghệ, về đổi mới sáng tạo và về năng suất lao động so với một số nước ở Châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và Singapore.
 
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chi tiêu cho nghiên cứu phát triển cả khu vực Nhà nước và tư nhân của Việt Nam hiện nay chỉ khoảng 0,44% GDP, khá thấp so với bình quân của thế giới là 2,23% GDP (Thái Lan 0,78%; Singapore 2,2%; Malaysia 1,3%, Trung Quốc 2,1% GDP). Nếu không mạnh dạn đầu tư cho khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo, chúng ta sẽ bị mắc kẹt trong cái hố năng suất thấp, giá trị gia tăng thấp và bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, cả Nhà nước và và khu vực tư nhân cần nhận thức đúng tầm quan trọng của đầu tư cho khoa học và công nghệ và ưu tiên chi cho khoa học và công nghệ  một cách tương xứng hơn, hiệu quả hơn; đồng thời, chú trọng tính thiết thực, hiệu quả, không làm theo phong trào, ứng dụng thấp, gây lãng phí.
 
Các doanh nghiệp cũng cần hiểu rằng đầu tư cho nghiên cứu & phát triển là một trong những phương pháp tốt nhất để đạt được hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh và có thể giành được vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chúng ta cần tìm ra điểm kích hoạt khuyến khích doanh nghiệp hăng hái đầu tư cho nghiên cứu & phát triển, chứ không chỉ kêu gọi bằng lời nói.
 
Việt Nam kiên định xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Phấn đấu đến những năm 2030, Việt Nam hướng tới một xã hội thịnh vượng, thuộc nhóm có thu nhập trung bình cao; đến 2045 trở thành một quốc gia phát triển, định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần có một chiến lược phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế. Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng kết hợp với phát triển công nghệ nhất là  trong một số ngành, lĩnh vực mới có tiềm năng, thế mạnh. Cần phải xác định khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo phải là nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước; là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của mô hình phát triển kinh tế – xã hội. Phải làm tốt hơn nữa sự phối hợp giữa nhà nước và xã hội trong phát triển khoa học và công nghệ, kết hợp tốt hơn giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới, sáng tạo. Phấn đấu yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt trên 50%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng ít nhất 6,5-7,0/năm.
 
Các bộ, ngành, địa phương cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong chỉ đạo phát triển khoa học & công nghệ, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế, chính sách, với những cơ chế đặc thù, cạnh tranh để tăng cường ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển. Tập trung hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với doanh nghiệp là trung tâm, khuyến khích sự sáng tạo của người dân, gắn kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp, dịch vụ công nhằm kiến tạo và tích lũy tài sản trí tuệ, tạo ra nguồn nhiên liệu mới cho tăng trưởng kinh tế nhanh, bao trùm và bền vững.
 
Theo đó, ngành Khoa học và Công nghệ cần phối hợp các bộ, ngành, tổ chức liên quan tham mưu, đề xuất giải pháp, tập trung vào 5 vấn đề lớn sau đây:
 
Một là, đề xuất chính sách mang tính đột phá để khuyến khích và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp, dịch vụ công; nhất là hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ công. Tập trung nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.
 
Hai là, phát huy vai trò và tạo cơ chế phù hợp để các trường đại học, viện nghiên cứu có thể tăng cường nền tảng vốn con người cho đổi mới, sáng tạo; nhất là gắn liền các hoạt động nghiên cứu ứng dụng với nhu cầu doanh nghiệp và nền kinh tế. Cần tạo ra một nguồn lực con người có trình độ và tính sáng tạo cao.
 
Ba là, thúc đẩy liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước. Thúc đẩy vai trò then chốt, lan tỏa của các trung tâm trí tuệ, trung tâm đổi mới, sáng tạo đối với sự phát triển thông minh và bền vững ở các tỉnh, thành phố của Việt Nam.
 
Bốn là, xây dựng năng lực quản trị nhà nước đối với hệ thống đổi mới, sáng tạo, và phát huy công nghệ; hoàn thiện thể chế cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo, ứng dụng, phát triển công nghệ.
 
Năm là, Tái cấu trúc các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng. Tập trung phát triển sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao để hình thành các ngành nghề mới và các sản phẩm mới, giá trị gia tăng cao, nhất là lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh như: nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ, công nghệ thông tin,…v.v.
 
Để thực hiện 5 vấn đề trọng tâm trên, ngành Khoa học và Công nghệ cần lưu ý một số nội dung cụ thể. Đó là:
 
* Cần xây dựng khuôn khổ cho việc đo lường và đánh giá hiệu quả của nền kinh tế số, của hoạt động của các trường đại học, viện nghiên cứu, các cơ sở có hoạt động khoa học công nghệ. Ngành thống kê nghiên cứu phương thức đo lường và thống kê hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ và các hoạt động đổi mới sáng tạo theo các chuẩn mực quốc tế để có thể so sánh. Gắn các chương trình tài trợ nghiên cứu của Nhà nước với việc ứng dụng thực tế và thương mại hóa sản phẩm để tránh nghiên cứu rồi cất vào tủ, dành một phần ngân sách để chi cho các dự án, đề tài được đưa ra ứng dụng trong thực tế.
 
* Cần nghiên cứu thành lập ngân hàng dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
 
* Xây dựng chính sách nhằm thu hút và cộng tác với các chuyên gia giỏi ở trong và ngoài nước, đặc biệt là cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài. Chú ý đặc biệt những giải pháp không theo khuôn mẫu; chúng ta muốn thúc đẩy đổi mới sáng tạo thì bản thân chính sách, cơ chế cũng phải thoáng, mở, và sáng tạo.  
 
* Áp dụng mô hình đối tác công – tư (PPP) nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào các hoạt động đổi mới sáng tạo. Thử nghiệm mô hình “Nhà nước sở hữu, tư nhân vận hành”. Chuyển từ mô hình sử dụng ngân sách nhà nước sang đồng tài trợ, tiến đến tự chủ tài chính, nhà nước đặt hàng đối với các cơ sở nghiên cứu, các cơ sở Khoa học và Công nghệ và đổi mới, sáng tạo.
 
* Ngành Khoa học và Công nghệ sớm hoàn thiện Chỉ thị về việc thúc đẩy hấp thụ, phát triển công nghệ, hoạt động đổi mới công nghệ và hoạt động đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, bao gồm việc phát huy quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp; khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm xã hội để đầu tư cho nghiên cứu phá triển và thương mại hóa các sản phẩm sáng tạo; đề án hoàn thiện thể chế để thu thút nguồn lực xã hội đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là từ doanh nghiệp; Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia; Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia.
 
Ngành Khoa học và Công nghệ cần phát huy vai trò điều phối, nâng cao hiệu quả công tác giữa các bộ, ngành và các cấp trong phát triển và ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế – xã hội. Thúc đẩy hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nhằm khai thác lợi thế, chia sẻ kinh nghiệm và tận dụng các thành tựu Khoa học và Công nghệ tiên tiến, cũng như chủ động nắm rõ các xu thế Khoa học và Công nghệ trên thế giới để có phương án vận dụng hiệu quả vào Việt Nam.
 
Mỗi bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp cần cần có những hành động cụ thể, thiết thực thúc đẩy sáng kiến cải tiến, đổi mới sáng tạo, coi việc sử dụng hiệu quả Khoa học và Công nghệ, đổi mới sáng tạo như là một đột phá phát triển nhanh và bền vững đất nước.
 
Nguyễn Xuân Phúc
Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ
 
 
 
Nguồn: Báo điện tử Chính phủ

Phát triển robot và ứng dụng trí tuệ nhân tạo: nhìn từ kinh nghiệm của Hàn Quốc

Để nghiên cứu về robot cũng như ứng dụng trí tuệ nhân tạo thành công, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc – đất nước có ngành công nghiệp robot phát triển mạnh mẽ với tỷ lệ 631 robot/10.000 nhân viên (cao hơn 8 lần so với tỷ lệ trung bình của thế giới).
Chiều 6/5, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Hội thảo “Robot và ứng dụng trí tuệ nhân tạo – Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam”. Tham dự Hội thảo, về phía Việt Nam có Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc, PGS.TS Tạ Cao Minh – Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội tự động hóa. Về phía đại biểu khách quốc tế có GS. Byung – Ju Yi, Chủ tịch Hiệp hội Robot Hàn Quốc (KROS); GS. Bum Jae You, Chủ tịch (được bầu khóa tới) của KROS, Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc – KIST; đại biểu đại diện cho các bộ, ngành; các chuyên gia, nhà khoa học; đại diện doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học Việt Nam và Hàn Quốc.
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc phát biểu tại Hội thảo.
 
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho biết, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ ứng dụng robot trên đầu người cao nhất thế giới và ngành công nghiệp robot của Hàn Quốc đang phát triển hết sức mạnh mẽ. Hàn Quốc vì thế có những bài học kinh nghiệm quý giá để các nước đang phát triển tham khảo cũng như mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong lĩnh vực robot và trí tuệ nhân tạo.
“Hội thảo sẽ tạo cơ hội cho đại biểu các bộ, ngành, các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp hai nước cùng trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hướng tới các hợp tác cụ thể trong tương lai trong lĩnh vực robot và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng lần thứ 4 vào phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước, góp phần làm sâu sắc hơn nữa hoạt động hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
 
 
GS. Byung – Ju Yi, Chủ tịch Hiệp hội Robot Hàn Quốc bày tỏ niềm tự hào khi được tham dự buổi Hội thảo, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp robot và trí tuệ nhân tạo đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. GS. Byung – Ju Yi hy vọng rằng, từ những kinh nghiệm của Hàn Quốc, Việt Nam có thể đẩy mạnh công tác nghiên cứu robot, trí tuệ nhân tạo ở trong nước.
GS. Byung – Ju Yi cũng nhấn mạnh, sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự hợp tác giữa hai Bên. Trong thời gian qua, với vai trò chủ đạo của Chính phủ, Hàn Quốc đã phát triển các hoạt động nghiên cứu về robot cũng như trí tuệ nhân tạo và đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Những kinh nghiệm đó của Hàn Quốc có thể trở thành bài học tham khảo để đóng góp cho những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trên con đường phát triển hoạt động nghiên cứu về robot cũng như ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
 
Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học đã trình bày báo cáo tham luận về tình hình nghiên cứu phát triển robot và ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Canada và Việt Nam… Đồng thời, các chuyên gia cũng đã thảo luận một số nội dung về: sự giúp đỡ của Chính phủ Hàn Quốc đối với chiến lược về phát triển robot; ứng dụng robot trong ngành công nghiệp; sự giúp đỡ của Hàn Quốc đối với Việt Nam trong đào tạo, nghiên cứu khoa học về robot và trí tuệ nhân tạo tại một số trường đại học trong thời gian tới… Các chuyên gia, nhà khoa học đều khẳng định, để phát triển robot và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, Chính phủ có vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong việc hỗ trợ doanh nghiệp về ứng dụng công nghệ cao.
 
 
Bộ KH&CN ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác với Hiệp hội Robot Hàn Quốc.
 
Trong khuôn khổ Hội thảo, Bộ KH&CN đã ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác với Hội robot Hàn Quốc nhằm thúc đẩy sự hợp tác về robot và ứng dụng trí tuệ nhân tạo giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp ở cả hai quốc gia thông qua các hình thức hợp tác như thực hiện các dự án nghiên cứu chung, dự án chuyển giao công nghệ, trao đổi chuyên gia và việc cùng phối hợp tổ chức hội thảo thường niên trong các lĩnh vực này.
Trong hơn 25 năm qua, quan hệ hợp tác Việt Nam và Hàn Quốc đã tiến triển hết sức tốt đẹp và đạt được nhiều kết quả tích cực trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – thể thao, KH&CN. Hợp tác KH&CN giữa hai nước ngày càng được đẩy mạnh thông qua thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) và đã có nhiều hoạt động hợp tác đa dạng thông qua các dự án nghiên cứu chung giữa các nhà khoa học hai nước.
Cách mạng Công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 tác động mạnh đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự phát triển mạnh mẽ các công nghệ như robot, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật..v.v. trong kỷ nguyên số đã và sẽ làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Cuộc CMCN lần thứ 4 có thể tạo ra lợi thế cho những nước như Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm. CMCN lần thứ 4 tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ số và internet đồng thời cũng là cơ hội lớn cho sản xuất công nghiệp ứng dụng tự động hóa, robot và trí tuệ nhân tạo.
 
Tuy nhiên, CMCN lần thứ 4 cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Nếu không bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới và khu vực, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu về công nghệ, nguy cơ suy giảm sản xuất và kinh doanh, khả năng bị thu hẹp đối với những ngành, lĩnh vực thâm dụng lao động giản đơn (như dệt may, lắp ráp…) trong trung và dài hạn. Nếu chỉ dựa vào lao động kỹ năng giản đơn, Việt Nam sẽ không thể bắt kịp với CMCN lần thứ 4. Đây vừa là sức ép lớn song cũng là cơ hội để tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng.
Trước tình hình đó, để chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của CMCN lần thứ 4, ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cho Việt Nam, trong đó giao nhiệm vụ cho Bộ KH&CN là đầu mối chủ trì, phối hợp đôn đốc các bộ, ngành Trung ương và địa phương để triển khai, bước đầu ghi nhận sự tham gia tích cực của toàn xã hội, các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các nhà khoa học của Việt Nam ở trong và ngoài nước.
 
– Hiệp hội robot Hàn Quốc (KROS) được thành lập năm 2003, gồm tập hợp các thành viên là các Viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp (hiện có gần 2.000 thành viên, nòng cốt là các giáo sư, nhà khoa học hàng đầu từ các trường đại học, viện nghiên cứu Hàn Quốc và các chuyên gia từ khu vực doanh nghiệp công nghệ). Các giáo sư, nhà nghiên cứu và chuyên gia công nghệ này là nguồn nhân lực chính trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực robot, tự động hoá, ứng dụng AI cho các tập đoàn và các công ty hàng đầu của Hàn Quốc. KROS là đơn vị sáng lập và tổ chức xuất bản 3 tạp chí ISI chuyên ngành về “robotics and intelligent systems”, sáng lập và tổ chức 2 hội thảo chuyên ngành quốc tế uy tín hàng năm về robot (bao gồm Ubiquitous Robotics). Mạng lưới của KROS mở rộng đến các đơn vị học thuật, nghiên cứu và sản xuất robot của Hàn Quốc. Ngoài ra, KROS còn có các đại diện ở Mỹ, châu Âu, Nhật Bản.
– Theo thống kê của Liên đoàn Robot quốc tế (IFR) công bố năm 2017, Hàn Quốc là quốc gia có mật độ robot cao nhất trong ngành sản xuất công nghiệp toàn cầu với tỷ lệ 631 robot trên 10.000 nhân viên, cao hơn 8 lần so với tỷ lệ trung bình của thế giới. Tại Hàn Quốc, robot chủ yếu được sử dụng trong các ngành công nghiệp sản xuất điện tử và ô tô, chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế Hàn Quốc. Sau Hàn Quốc là Singapore với tỷ lệ 488 robot trên 10.000 nhân viên (khoảng 90% robot này được sử dụng trong ngành công nghiệp điện tử). Đứng thứ 3 thế giới là Nhật Bản với 303 robot/10.000 nhân viên.
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác quốc tế

Phòng học STEM tại Đài thiên văn Hòa Lạc: Khơi dậy niềm đam mê thiên văn học

 
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn Lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam) vừa đưa vào sử dụng 2 phòng học STEM là phòng công nghệ và phòng thiên văn, có nhiệm vụ phổ biến kiến thức, thực hành các bài học STEM liên quan đến công nghệ và khoa học vũ trụ.
 
Phòng học STEM tại Đài thiên văn Hòa Lạc
 
Cùng với các hạng mục khác gồm nhà chiếu hình vũ trụ, kính thiên văn… hệ thống phòng học STEM tại Đài thiên văn Hòa Lạc đã sẵn sàng hoạt động, đảm bảo phục vụ tốt nhất vụ cho các đối tượng học sinh từ cấp 2 đến đại học với quy mô 100 học sinh/lớp.
 
Tại phòng công nghệ, các em học sinh sẽ được làm quen với các kiến thức về công nghệ vũ trụ, được thực hành làm các sản phẩm liên quan đến lĩnh vực này với các dụng cụ được chuẩn bị sẵn dưới sự hướng dẫn của các cán bộ trẻ của Trung tâm.
 
Tương tự, tại phòng thiên văn, học sinh sẽ được cung cấp các kiến thức liên quan đến vũ trụ và bầu trời cùng các bài tập thực hành nhận biết các chòm sao trong hệ mặt trời.
 
Ngoài ra, hiện Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cũng đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục cần thiết, chuẩn bị cho việc đi vào vận hành chính thức của Đài thiên văn Hòa Lạc vào quý 2/2019.
 
Khởi công từ năm 2015, Đài quan sát thiên văn Hòa Lạc có nhiệm vụ nghiên cứu về Vật lý thiên văn và phổ biến kiến thức về khoa học vũ trụ tới cộng đồng; Hỗ trợ đào tạo và nâng cao chất lượng nhân lực trong lĩnh vực vật lý thiên văn và vũ trụ; Hợp tác nghiên cứu với các nhóm nghiên cứu cùng lĩnh vực trong và ngoài nước.
 
Bên cạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, Đài thiên văn Hòa Lạc còn có nhiệm vụ phổ biến kiến thức cho cộng đồng, khơi dậy niềm đam mê khoa học, yêu thích thiên văn học và vũ trụ cho các bạn trẻ.
 
Hiện đài thiên văn Hòa Lạc đã và đang đón nhiều đoàn khách đến tìm hiểu, đặt vấn đề hợp tác đào tạo và phổ biến kiến thức khoa học vũ trụ.
 
Liên kết nguồn tin: https://giaoducthoidai.vn/khoa-hoc/phong-hoc-stem-tai-dai-thien-van-hoa-lac-khoi-day-niem-dam-me-thien-van-hoc-3990292-v.html
 
 
 
Nguồn: giaoducthoidai.vn

Việt Nam đảm nhận vị trí Chủ tịch Nhóm Công tác về Hợp tác sở hữu trí tuệ các nước ASEAN (AWGIPC) nhiệm kỳ 2019-2021

 
Ngày 29/3/2019, tại Bangkok, Thái Lan, trong khuôn khổ Cuộc họp lần thứ 58 Nhóm Công tác về Hợp tác sở hữu trí tuệ các nước ASEAN (AWGIPC 58) đã diễn ra Lễ chuyển giao vị trí Chủ tịch Nhóm AWGIPC từ ông Freddy Harris, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Indonesia sang ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Cục trưởng Freddy Harris bàn giao vị trí Chủ tịch Nhóm AWGIPC cho Cục trưởng Đinh Hữu Phí (Bangkok, Thái Lan, 29/3/2019)
 
Phát biểu tại Lễ chuyển giao, thay mặt Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam, ông Đinh Hữu Phí chúc mừng Indonesia đã hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ Chủ tịch Nhóm AWGIPC trong 2 năm qua, đồng thời đánh giá cao những đóng góp của Indonesia trong việc điều hành Nhóm AWGIPC đạt được những thành tựu như ngày hôm nay, đặc biệt là triển khai thực hiện Kế hoạch hành động ASEAN về sở hữu trí tuệ giai đoạn 2016-2025 cũng như củng cố hợp tác giữa ASEAN và các đối tác đối thoại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
 
Ông Đinh Hữu Phí cũng nhấn mạnh Việt Nam rất vui mừng và tự hào được lần đầu tiên tiếp nhận vị trí Chủ tịch Nhóm AWGIPC. Trong nhiệm kỳ của mình, Việt Nam cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ với tất cả các nước thành viên trong khu vực và Ban Thư ký ASEAN thực hiện có hiệu quả các mục tiêu và sáng kiến nêu trong Kế hoạch hành động ASEAN về sở hữu trí tuệ giai đoạn 2016-2025 cũng như tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa ASEAN và các đối tác đối thoại. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam hy vọng sẽ nhận được sự ủng hộ và hợp tác nhiệt tình từ tất cả các nước thành viên cũng như từ Ban Thư ký ASEAN.
 
Tại Buổi lễ, đại diện cơ quan sở hữu trí tuệ các nước trong khu vực đã chúc mừng Việt Nam trong vai trò Chủ tịch AWGIPC và bày tỏ tin tưởng Việt Nam sẽ làm tốt vai trò Chủ tịch trong nhiệm kỳ mới, giúp thúc đẩy đoàn kết và quan hệ hợp tác khu vực trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ lên một tầm cao mới.
 
Bên lề sự kiện, đoàn Việt Nam đã có các buổi gặp mặt song phương với Australia, Indonesia, Lào, Malaysia, Thái Lan, Dự án ARISE+IPR, Dự án IP KEY SEA và Tổ chức Sở hữu trí tuệ (WIPO) để trao đổi các kế hoạch hợp tác trong thời gian tới./.
 
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ

Dự án MEMS/NEMS triển khai đúng tiến độ

Ngày 11/3/2019, sau khoảng 7 tháng thi công Viện Ứng dụng công nghệ đã chính thức thực hiện cất nóc tòa nhà Phòng thí nghiệm MEMS/NEMS. Đồng chí Lê Hhttps://www.most.gov.vn/Images/editor/images/phoicanh1.jpgùng Lân – Viện trưởng Viện Ứng dụng công nghệ đã chủ trì hoạt động quan trọng này.
 
Hạng mục xây dựng chính Phòng thí nghiệm MEMS/NEMS thuộc dự án “Phòng thí nghiệm nghiên cứu thiết kế chế tạo các linh kiện cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS – Quang điện tử và Khu Nghiên cứu Chế thử sản phẩm công nghệ cao – Giai đoạn 1” gọi tắt là dự án MEMS/NEMS. Dự án MEMS/NEMS được hình thành trên cơ sở định hướng phát triển của Viện Ứng dụng Công nghệ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó lĩnh vực Quang điện tử ứng dụng sẽ là lĩnh vực mũi nhọn của Viện nhằm tạo cơ sở nghiên cứu ứng dụng mạnh.
Dự án góp phần thực thi nhiệm vụ quốc gia trong một số lĩnh vực khoa học, tiếp thu và sản xuất thử nghiệm các sản phẩm KHCN từ các cơ sở nghiên cứu, kết hợp với các công ty trong và ngoài nước, tư vấn và giải quyết những vấn đề sản xuất đặt ra, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, tham gia vào các dự án Quốc tế và các dự án liên ngành.
Viện đã chính thức được bàn giao và tổ chức tiếp nhận lô đất số CN33 tại Khu Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ với diện tích 2,57 ha thuộc Khu Công nghệ cao Hoà Lạc để triển khai dự án đầu tư trên. Theo nội dung được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt, dự án gồm 02 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Tập trung đầu tư xây dựng Khu Phòng thí nghiệm nghiên cứu thiết kế chế tạo các linh kiện cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS – Quang điện tử. Giai đoạn 2: Xây dựng Khu Nghiên cứu chế thử sản phẩm Công nghệ cao.
 
Phối cảnh tổng thể dự án MEMS/NEMS
 
Chất lượng, tiến độ
Theo kế hoạch, các hạng mục xây dựng thuộc dự án sẽ được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong quý III/2019. Hạng mục quan trọng nhất của gói thầu là Phòng Thí nghiệm MEMS/NEMS có diện tích xây dựng 864m2, tổng diện tích sàn xây dựng 1.600 m2. Bao gồm Phòng sạch, phòng làm việc, nghiên cứu cho các chuyên gia, nghiên cứu viên, phòng hội thảo.
 
Đây là gói thầu xây dựng có nhiều hạng mục yêu cầu kỹ thuật cao trong xây dựng đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong xây dựng để đủ điều kiện lắp đặt các thiết bị nghiên cứu hiện đại (các hạng mục xây dựng chính như Phòng sạch, gồm 4 module Phòng vàng; Phòng khắc ướt; Phòng chế tạo; Phòng đánh giá đặc trưng). Để triển khai dự án đảm bảo các yêu cầu “khắt khe trên” cần có sự phối hợp nhịp nhàng, giám sát chặt chẽ của chủ đầu tư, Ban quản lý dự án chuyên ngành, đơn vị tư vấn thiết kế và nhà thầu thi công. Công trình áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến trên thế giới trong thi công cũng như ứng dụng công nghệ cao nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong việc vận hành sau này của dự án như: tạo nguồn năng lượng điện sạch từ hệ thống pin năng lượng mặt trời, hệ thống cấp thoát nước, điện nhẹ, PCCC được thiết kế hiện đại theo tiêu chuẩn châu Âu đối với các phòng thí nghiệm.
Bên ngoài tòa nhà được thiết kế bảo đảm không gian thoáng, xanh sạch đẹp bởi những bồn hoa, cây xanh đảm bảo cho những người làm việc tại tòa nhà luôn có được điều kiện làm việc thoải mái nhất.
Trong quá trình thực hiện dự án, mặc dù thời tiết không thuận lợi, phát sinh khá nhiều vấn đề kỹ thuật cần phải xử lý kịp thời (như địa chất không ổn định khi ép cọc đại trà) tuy nhiên Viện Ứng dụng công nghệ đã phối hợp với các đơn vị liên quan kịp thời xử lý tại hiện trường. Đến nay, cơ bản tiến độ của dự án được đảm bảo, chất lượng của công trình được các bên tham gia dự án đánh giá cao.
Trong điều kiện công trình ở xa, nhân lực ít tuy nhiên Viện vẫn có phương án điều phối, giám sát chặt chẽ công việc. Hàng tuần, Viện Ứng dụng công nghệ chủ trì việc giao ban công trình tại hiện trường để giải quyết tại chỗ các vấn đề vướng mắc.
Song song với việc thi công xây dựng, Viện Ứng dụng công nghệ cũng đang tích cực đôn đốc các nhà thầu cung cấp thiết bị đúng tiến độ của dự án.
 
Đại diện các bên tham gia buổi cất nóc dự án    
 
Việc tòa nhà được cất nóc đúng tiến độ là biểu hiện cho sự quyết tâm của Lãnh đạo Viện Ứng dụng công nghệ trong việc đầu tư chiều sâu cơ sở vật chất, trang thiết bị để từng bước hướng tới trở thành Viện Quốc gia với quy mô ngang tầm các viện công nghệ trong khu vực. Dự án cũng là minh chứng cho sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ KH&CN trong việc ưu tiên triển khai đồng bộ dự án trong Khu CNC Hoà Lạc.
 
Bên cạnh đó, dự án MEMS/NEMS sẽ là bước tiến đầu tiên và quan trọng của Viện Ứng dụng công nghệ tại khu CNC Hòa Lạc. Đây là cơ sở để Viện có thể tận dụng hạ tầng hiện đại khu vực đồng thời liên kết hợp tác với các tổ chức (là đơn vị nghiên cứu/doanh nghiệp) đang hoạt động tại chính Khu CNC Hoà Lạc./.
 
Nguồn: Viện Ứng dụng công nghệ

Những thay đổi quan trọng về chính sách tiền lương, BHXH từ năm 2019

Từ ngày 1-1-2019, mức lương tối thiểu vùng mới chính thức có hiệu lực. Theo Nghị định 157/2018/NĐ-CP, mức lương tối thiểu vùng năm 2019 tăng từ 160.000 – 200.000 đồng/tháng so với mức lương tối thiểu vùng năm 2018.
 
Trong năm 2019, tiền lương, mức hưởng BHXH cũng như mức đóng bảo hiểm của cán bộ, công chức và người lao động (NLĐ) sẽ có những sự thay đổi.
 
1. Lương tối thiểu vùng tăng từ 160.000 – 200.000 đồng/tháng
 
Từ ngày 1-1.2019, mức lương tối thiểu (LTT) vùng mới chính thức có hiệu lực. Theo Nghị định 157/2018/NĐ-CP, mức LTT vùng năm 2019 tăng từ 160.000 – 200.000 đồng/tháng so với mức LTT vùng năm 2018.
 
Cụ thể, các doanh nghiệp (DN) thuộc vùng I áp dụng mức LTT là 4.180.000 đồng/tháng (tăng 200.000 đồng so với quy định hiện hành).
 
Các DN thuộc vùng II áp dụng mức LTT là 3.710.000 đồng/tháng (tăng 180.000 đồng so với quy định hiện hành).
Các DN thuộc vùng III áp dụng mức LTT là 3.250.000 đồng/tháng (tăng 160.000 đồng so với quy định hiện hành);
 
– Các DN thuộc vùng IV áp dụng mức LTT là 2.920.000 đồng/tháng (tăng 160.000 đồng so với quy định hiện hành).
 
 
2. Tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức
 
Từ ngày 1-7-2019 mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức sẽ được tăng thêm 100.000 đồng so với năm 2018. Cụ thể, theo Nghị quyết 70/2018/QH14 do Quốc hội ban hành mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức sẽ tăng từ 1.390.000 đồng/tháng lên 1.490.000 đồng/tháng.
 
Đây là căn cứ tính bảng lương, mức phụ cấp, lương hưu và các khoản trợ cấp dành cho cán bộ, công chức, viên chức. Vì vậy, các khoản tiền lương , phụ cấp, trợ cấp… đều được tăng lên.
 
DO mức lương cơ sở thay đổi tăng lên nên các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội được tính dựa trên mức lương cơ sở cũng tăng. Cụ thể như sau:
 
Tăng mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau sinh.
 
Tăng trợ cấp một lần sau khi sinh con.
 
Tăng mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau sinh.
 
Tăng mức lương hưu tối thiểu hàng tháng.
 
Tăng mức trợ cấp mai táng.
 
Tăng mức trợ cấp tuất hàng tháng.
 
Tăng trợ cấp tai nạn lao động.
 
3. Tăng mức lương tính đóng BHXH bắt buộc
 
Theo Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017 quy định: "Mức lương tính đóng BHXH của NLĐ làm việc trong doanh nghiệp không thấp hơn mức LTT vùng tại thời điểm đóng đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường."
 
Mức LTT vùng năm 2019 có thay đổi tăng do đó mức lương để tính BHXH cũng tăng theo.
 
Cũng tại Quyết định này, tiền lương đóng BHXH của CBCCVC tính trên mức lương cơ sở, do đó khi mức lương cơ sở năm 2019 tăng thì mức đóng BHXH của CBCCVC cũng tăng theo.
 
4. Doanh nghiệp phải công khai việc đóng BHXH, BHYT
 
Nghị định 149/2018/NĐ-CP , ngày 07/11/2018, của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc có hiệu lực từ 01/01/2019. Nghị định này quy định nguyên tắc, nội dung, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc của doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động (người sử dụng lao động).
 
Trong đó, nội dung người sử dụng lao động phải công khai gồm: Tình hình thực hiện nhiệm vụ, sản xuất, kinh doanh; nội quy, quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể ngành, thỏa ước lao động tập thể khác mà doanh nghiệp tham gia; nghị quyết Hội nghị người lao động; việc trích lập, sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và các quỹ do người lao động đóng góp (nếu có); việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; tình hình thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
 
Tin -ảnh: K.Linh

Triển khai Nghị quyết số 01 và 02 năm 2019 của Chính phủ: Ngành khoa học và công nghệ phải bứt phá mạnh mẽ

Chủ trì cuộc họp đầu năm 2019 của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đã thể hiện tinh thần quyết tâm với những giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong năm 2019 theo Chương trình hành động tại Nghị quyết số 01 và 02 của Chính phủ, với kỳ vọng ngành KH&CN tiếp tục có những đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng và sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước nói chung.
 
Ngày 14/02/2019, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đã chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các đơn vị chức năng của Bộ về triển khai thực hiện Chương trình hành động của Bộ KH&CN thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ và Chương trình công tác năm 2019 của Bộ KH&CN với phương châm hành động của Chính phủ “Kỷ cương, liêm chính, hành động, bứt phá, sáng tạo, phát triển”.
 
 
Toàn cảnh cuộc họp
 
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh khái quát ngắn ngọn về những kết quả cũng như những khó khăn, thách thức của ngành KH&CN trong năm 2018 vừa qua. Đặc biệt, được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương về hoạt động KH,CN và  đổi mới sáng tạo (ĐMST) đã tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển KH&CN phục vụ trực tiếp phát triển kinh tế – xã hội. Qua đó đã ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế, hoàn thành toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch, trong đó có 9 chỉ tiêu vượt kế hoạch; tăng trưởng GDP đạt 7,08% vượt chỉ tiêu 6,7%, cao nhất kể từ năm 2008.
Nhiều thành tựu KH&CN được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, xây dựng, thông tin, ngân hàng, du lịch. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng của nền kinh tế ngày một lớn, năm 2018 đạt 43,5% (bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 42,18%, cao hơn nhiều giai đoạn 2011-2015 là 33,58%) vượt mục tiêu 5 năm 2016-2020 Quốc hội giao (khoảng 30%-35%). Năm 2018, xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam tiếp tục tăng 2 bậc lên vị trí 45/126 quốc gia và nền kinh tế, dẫn đầu nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp (năm 2017 tăng 12 bậc, từ vị trí 59 lên vị trí 47). Góp phần vào thành quả chung đó, ngành KH&CN trong năm 2018 đã có những bước chuyển mình đáng ghi nhận, khẳng định vị trí, vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực KH&CN, cùng đất nước tiếp tục phát triển, hội nhập sâu rộng với thế giới.
Bộ trưởng khẳng định, với sự chuyển dịch chính sách – lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trong mấy năm gần đây, Bộ đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; tập trung phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị sản xuất; hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo;… đặc biệt là việc tận dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại.
Tuy nhiên, Bộ trưởng nhận định, mặc dù có nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn, Bộ trưởng mong muốn tập thể cán bộ Bộ KH&CN, nhất là những người đứng đầu các đơn vị cần phát huy sức mạnh và trí tuệ, bứt phá mạnh mẽ, quyết liệt thực hiện các nhiệm vụ được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, tiếp tục khẳng định và nâng cao vị thế của Bộ trong công tác tham mưu chính sách về phát triển KH,CN và ĐMST để ngành KH&CN tiếp tục có những đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng và sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước nói chung.
Theo Bộ trưởng, tiếp nối thành công của năm 2018, Bộ KH&CN sẽ phấn đấu thực hiện các mục tiêu đặt ra cao hơn trong năm 2019. Nhưng để thực hiện hóa điều này rất cần sự đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm vượt qua chính mình, thay đổi chính mình; cũng như công tác chỉ đạo, điều hành quyết liệt ở những người đứng đầu đơn vị. Tinh thần chung là phải quyết liệt hơn, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao hơn năm 2018.
 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh chủ trì cuộc họp
 
Các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, cụ thể triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ
Tại hội nghị, Lãnh đạo các đơn vị đã được quán triệt các nhiệm vụ cần phải tập trung triển khai theo Chương trình hành động của Bộ KH&CN thực hiện Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ, cụ thể: Khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho KH&CN và đổi mới sáng tạo, nhất là từ doanh nghiệp; Triển khai các giải pháp để tiếp thu và làm chủ các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia liên kết chặt chẽ với cộng đồng khởi nghiệp trong khu vực và quốc tế, biến khởi nghiệp sáng tạo thành một trong những động lực đột phá cho đổi mới mô hình tăng trưởng; Rà soát, tái cơ cấu các chương trình KH&CN quốc gia theo hướng coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; Quyết liệt đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu; Đẩy mạnh hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ; Bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển khai thác tài sản trí tuệ phục vụ phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế; Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021; Đẩy mạnh hoạt động truyền thông KH&CN.
 
Các nhiệm vụ theo chức năng của Bộ KH&CN, cụ thể: Thực hiện các kế hoạch Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2019; Triển khai kế hoạch năm 2019 và hướng dẫn xây dựng kế hoạch năm 2020; Kế hoạch xây dựng các văn bản năm 2019 của Bộ KH&CN; Thực hiện công tác đánh giá, phân loại tổ chức, cá nhân; Tổ chức thực hiện Quy chế, Điều lệ tổ chức và hoạt động của các đơn vị trược thuộc Bộ đã được ban hành; Tiếp tục triển khai Nghị quyết 18, và 19 của Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 08,10 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ vể đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Xây dựng xây dựng Chính phủ điện tử phục vụ người dân và doanh nghiệp; Triển khai kế hoạch năm 2019 của Lãnh đạo Bộ và triển khai các hoạt động thiết thực Chào mừng 60 năm Ngày thành lập Bộ KH&CN.
Bộ trưởng chỉ đạo, ngay sau kỳ nghỉ Tết, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ cần quán triệt tới toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật hành chính, kỷ luật lao động; khẩn trương tập trung giải quyết, xử lý công việc ngay những ngày làm việc sau Tết bảo đảm chất lượng và tiến độ, đặc biệt là những công việc còn tồn đọng hoặc chậm tiến độ do nghỉ Tết, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nhân dân.
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
 

Thủ tướng Chính phủ: Cần tập trung chuyển đổi mạnh mẽ nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng dựa vào khoa học và công nghệ

Ngày 11/02/2019, ngày làm việc đầu tiên sau kỳ nghỉ Tết nguyên đán Kỷ Hợi, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã tới thăm, làm việc, dự lễ xuất những chuyến hàng rau quả đầu tiên sang Nhật Bản năm Kỷ Hợi 2019 của Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Đồng Giao.
 
Cùng đi có các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng: đồng chí Mai Tiến Dũng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; đồng chí Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; đồng chí Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; đồng chí Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; lãnh đạo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương…, Lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Ninh Bình.
 
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm nhà máy chế biến nông sản của Công ty cổ phần TPXK Đồng Giao, thăm ruộng sản xuất của nông trường Đồng Giao, cắt băng xuất những chuyến hàng nông sản đầu tiên đi nước ngoài trong năm mới Kỷ Hợi 2019.
 
 
Thủ tướng dự lễ cắt băng xuất những chuyến hàng nông sản đầu tiên đi nước ngoài trong năm mới Kỷ Hợi 2019
(Ảnh: Quang Hiếu)
 
Tại nhà máy chế biển nông sản Đồng Giao và ruộng sản xuất của nông trường Đồng Giao (thành phố Tam Điệp), Thủ tướng đã thăm hỏi, động viên, khích lệ tinh thần sản xuất của cán bộ, công nhân viên công ty trong ngày làm việc đầu tiên của năm mới âm lịch 2019.
 
Công ty cổ phần TPXK Đồng Giao được thành lập năm 1955, tiền thân là Nông trường quân đội, do các Chiến sỹ Điện Biên và Cán bộ miền Nam tập kết về xây dựng. 15 năm trước đơn vị đã thực hiện cổ phần hóa. Cùng với sự biến động, phát triển của đất nước, kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty cũng đạt được nhiều thành tựu.
Công ty không những đã tập trung sản xuất nguyên liệu, sử dụng có hiệu quả diện tích đã được giao tại Ninh Bình, Gia Lai mà còn chủ động liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho bà con nông dân tại 13 tỉnh, tạo công ăn việc làm cho trên 20.000 lao động. Sản phẩm của Công ty đã có mặt tại hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính, đòi hỏi tiêu chuẩn cao như Nhật Bản, Mỹ, Đức, châu Âu. Doanh thu bán hàng năm 2018 là 1.900 tỷ đồng, trong đó doanh thu xuất khẩu là 70 triệu USD.
 
Bên cạnh đó, Công ty cũng áp dụng khoa học và công nghệ để sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm an toàn, năng suất, chất lượng cao. Tại tỉnh Ninh Bình, Công ty có diện tích 500 ha tưới tiêu tự động theo công nghệ cảm biến độ ẩm của Israel, tại Gia Lai, Công ty cũng đầu tư hệ thống tưới tiêu chủ động trên diện tích 2.000 ha. Ngoài ra, Công ty cũng liên kết trồng và tiêu thụ nông sản tại nhiều tỉnh, thành khác trên cả nước, giúp giải quyết đầu ra cho nông sản, tạo công ăn việc làm và mang lại thu nhập ổn định cho hàng chục nghìn lao động tham gia chuỗi liên kết.
Phát biểu tại buổi làm việc, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao việc Công ty Đồng Giao đã áp dụng tiến bộ mới nhất của khoa học và công nghệ vào trồng trọt và chế biến thực phẩm. Công ty đã liên kết rất rộng rãi với các tỉnh thành trong cả nước từ Tây Nguyên đến Đồng bằng Bắc Bộ để phát triển nông nghiệp, tích tụ đất đai góp phần nâng cao sản xuất. Cùng với đó là đa dạng các thị trường, mở rộng đến các thị trường khó tính.
 
 
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và đoàn công tác làm việc với lãnh đạo Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Ảnh: Quang Hiếu)
 
Thủ tướng đề nghị ngành nông nghiệp Việt Nam, Công ty Đồng Giao phải áp dụng mạnh mẽ, một là, công nghệ cảm biến, hai là robot tự động hóa, máy bay không người lái, thứ ba là dữ liệu lớn (big data), điện toán đám mây, thứ tư là công nghệ in 3D, thứ năm là ITC, internet vạn vật.
 
Cho rằng kết quả của ngành nông nghiệp thời gian qua mới chỉ là khởi đầu, Thủ tướng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cơ quan Trung ương và tất cả các tỉnh, thành trên cả nước cần tập trung lãnh đạo chuyển đổi mạnh mẽ nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng dựa vào khoa học và công nghệ, đa dạng sản phẩm, đi sâu vào chế biến, không chỉ đảm bảo tiêu dùng cho gần 100 triệu dân Việt Nam được sử dụng thực phẩm tốt nhất mà còn có một thị trường xuất khẩu lớn, đa dạng.
 
Nhân dịp này, Thủ tướng mong muốn các đơn vị trong cả nước bắt tay ngay vào sản xuất, kinh doanh, góp phần vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2019 ngay từ đầu năm./.
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN