.jpeg)
(1).jpg)
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
YERA, sản phẩm protein từ men vi sinh xuất phát từ ý tưởng của người mẹ mong muốn con mình có những sản phẩm tốt để sử dụng, đã giành ngôi vị cao nhất Cuộc thi tìm kiếm tài năng khởi nghiệp sáng tạo Quốc gia 2024.
Dự án được triển khai từ năm 2019, tổng số vốn đầu tư lên đến 100 tỷ đồng và đang cho doanh thu 15 tỷ đồng mỗi tháng, bà Lê Thanh Hoài Phương, Nhà sáng lập kiêm Giám đốc Yeast Era chia sẻ sau vòng chung kết Cuộc thi tìm kiếm tài năng khởi nghiệp sáng tạo quốc gia 2024, sáng 26/11.
Với Beta-glucan hỗ trợ miễn dịch và chất xơ hòa tan tốt cho tiêu hóa, YERA được đánh giá là lựa chọn ưu việt so với protein truyền thống, đóng góp tích cực cho sức khỏe, môi trường và tương lai.
Chính vì vậy, ban giám khảo Techfest 2024 chấm YERA cho ngôi vị cao nhất cuộc thi, vượt qua bốn đối thủ khác.
Bà Lê Thanh Hoài Phương cho biết “bản thân là một người mẹ có mong muốn con mình được sống, sử dụng những sản phẩm an toàn, có lợi cho sức khỏe nên đã nảy sinh ý tưởng thực hiện dự án”.
Theo nhà sáng lập của YERA, quá trình khởi nghiệp gặp rất nhiều khó khăn vì đây là sản phẩm mới, đòi hỏi công nghệ cao và vốn đầu tư rất lớn. “May mắn cho chúng tôi là đã kêu gọi được hai nhà đầu tư mạnh để triển khai dự án”, bà Phương nói.
YERA, sản phẩm protein từ men vi sinh giành chiến thắng Cuộc thi tìm kiếm tài năng khởi nghiệp sáng tạo Quốc gia 2024. Ảnh Lê Tân
Ngoài doanh số ổn định ở thị trường trong nước, YERA đang thâm nhập vào các thị trường như mới, tiềm năng như Indonesia, Ấn Độ, Trung Đông, châu Âu, và Bắc Mỹ.
Ban tổ chức cuộc thi trao giải nhì cho dự án của Enfarm, một công ty nông nghiệp công nghệ với sứ mệnh cải thiện sinh kế của nông dân và thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp bền vững nhờ phát triển công nghệ cảm biến đất chính xác với giá cả phải chăng. Công nghệ Enfarm cung cấp những thông tin quan trọng về tình trạng đất và cây trồng, đồng thời đưa ra các khuyến nghị canh tác cho nông dân, dự đoán giá cả, chẩn đoán sâu bệnh và kết nối nông dân với cơ sở người tiêu dùng.
Giải ba thuộc về dự án của Tubdd, nền tảng kết nối du khách với các “buddy” bản địa, mang đến trải nghiệm du lịch chân thực và độc đáo. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của du lịch tự túc, công nghệ số, Tubudd với 14 nhân sự và 1.000 “buddy” trên toàn thế giới đã khẳng định vị thế là nền tảng du lịch tiên phong, đem lại trải nghiệm sáng tạo, cá nhân hóa cho du khách.
Cuộc thi Tìm kiếm tài năng khởi nghiệp sáng tạo quốc gia 2024 tổ chức trong khuôn khổ Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia 2024 (Techfest Vietnam 2024). Cuộc thi hướng đến thúc đẩy các giải pháp sáng tạo từ các doanh nghiệp khởi nghiệp, thu hút nguồn lực chuyên gia, trí thức, doanh nhân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài, từ đó khơi nguồn tư duy sáng tạo, góp phần thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo cũng như góp phần tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam.
Được phát động từ ngày 23/9 đến ngày 31/10, cuộc thi thu hút 500 hồ sơ đến từ các tỉnh, thành phố trên cả nước, đề cử của hơn 18 cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo các tỉnh. Ban tổ chức đã chọn ra 5 đội bước vào chung kết gồm Yeast Er, Tititada, Enfar, Tubudd và Thinkprompt.
Đại diện Enfarm, dự án giải nhì trình bày với ban giám khảo tại chung kết Cuộc thi tìm kiếm tài năng khởi nghiệp sáng tạo quốc gia 2024. Ảnh Lê Tân
Techfest Việt Nam được tổ chức lần đầu năm 2015, trở thành hoạt động thường niên được Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với các đơn vị tổ chức. Năm nay chương trình phối hợp với UBND Thành phố Hải Phòng, triển khai bởi Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Natec), Sở KH&CN Thành phố Hải Phòng. Sự kiện diễn ra tại khách sạn Pullman, số 12 Trần Phú, quận Ngô Quyền, Hải Phòng từ ngày 26/11 đến 27/11.
Lê Tân/VnExpress
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh cho rằng giai đoạn tới Việt Nam tập trung cải thiện hệ thống quy định pháp lý để thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo đúng với bản chất.
Thông điệp được ông nói tại Diễn đàn chính sách cấp cao về khởi nghiệp sáng tạo “từ địa phương ra quốc tế” tổ chức trong khuôn khổ Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest) năm 2024, chiều 26/11.
Theo Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh, hiện nay Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý đầy đủ và rõ ràng cho hệ sinh thái khởi nghiệp, cho các tổ chức cá nhân khởi nghiệp sáng tạo. Các quy định pháp lý đang nằm trong các quy định của các văn bản pháp luật khác nhau, nhiều nội dung nằm trong Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này có thể phù hợp cho giai đoạn đầu nhưng khi hệ sinh thái Việt Nam bước sang giai đoạn mở rộng, kết nối cần thiết phải xây dựng chính sách phù hợp với bản chất, quy mô, tiềm năng, định hướng phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Thứ trưởng Hoàng Minh phát biểu khai mạc diễn đàn. Ảnh: TTTT
Thứ trưởng Hoàng Minh cũng nhận định, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam đã cơ bản bước qua giai đoạn đầu tiên, đang bước sang giai đoạn mở rộng và hội nhập với các hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trên thế giới. Theo đó cần xây dựng chính sách pháp luật, hành lang pháp lý để thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam phát triển tương xứng với mô hình, tiềm lực, yêu cầu của giai đoạn mới.
Giai đoạn tới hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam cần các thành tố mới, đó là các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp lớn với vai trò đầu tư, sử dụng các kết quả của tổ chức khởi nghiệp. Vì vậy cần chính sách phù hợp để thúc đẩy hệ sinh thái phát triển.
Là thành phố xếp thứ 2 về chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương (PII) năm 2023, ông Nguyễn Việt Dũng, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM nhìn nhận, một trong những thách thức trong thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là việc kết nối các thành phần hệ sinh thái. Trong đó cần cơ chế để doanh nghiệp có thể đặt hàng đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo từ nhu cầu thực tiễn của họ.
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM Nguyễn Việt Dũng chia sẻ các chính sách thành phố trong thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Ảnh: TTTT
Đồng tình, ông Hồ Thắng, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên – Huế nhìn nhận, chính quyền cần tạo đầu mối, dẫn dắt để doanh nghiệp gặp gỡ nhà khoa học. Đây là cách trong những năm qua Thừa Thiên – Huế thực hiện giúp nâng cao khả năng thương mại hóa các kết quả nghiên cứu thành các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. “Doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu thương mại hóa để khởi nghiệp”, ông Thắng nói.
Còn ông Trần Quang Tuấn, Giám đốc sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng, nói địa phương đang xây dựng các chính sách đặc biệt thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện tốt nhất phát triển dự án khởi nghiệp thời gian tới. Trong đó, Hải Phòng xây dựng chính sách các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nội địa có cơ chế đặt hàng các cơ sở đào tạo về nguồn nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề. Doanh nghiệp có các cam kết về danh mục các sản phẩm đặt hàng sinh viên, nhà khoa học nghiên cứu có giải pháp thay thế hàng nhập ngoại.
Nêu kinh nghiệm tại Hàn Quốc, ông Park Dae Hee, Giám đốc Trung tâm kinh tế sáng tạo và đổi mới thành phố Daejeon cho biết, địa phương có 26 trung tâm nghiên cứu do nhà nước lập ra và hơn 200 trung tâm thuộc các đại học. Sinh viên các đại học có thể thực tập tìm hiểu thực tế, học tập công nghệ tại doanh nghiệp. Khi tốt nghiệp, họ có thể nhanh hòa nhập công việc hơn.
Các chuyên gia thảo luận tại diễn đàn. Ảnh: TTTT
Techfest Việt Nam là một trong những sự kiện trọng điểm do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, nhằm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia theo Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ năm 2015, Techfest Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Bình Dương và Quảng Ninh…
Năm nay chương trình phối hợp với UBND Thành phố Hải Phòng, triển khai bởi Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Natec), Sở KH&CN Thành phố Hải Phòng. Sự kiện diễn ra tại khách sạn Pullman, số 12 Trần Phú, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
Chương trình là sự kiện thường niên lớn nhất dành cho khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam nhằm quy tụ các chuyên gia, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp uy tín trong và ngoài nước để đưa ra các định hướng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Vĩnh Hà/VnExpress
Lần đầu tiên, một báo cáo tổng quan về Khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam được công bố, nhằm cung cấp bức tranh tổng quan về hoạt động này thời gian qua.
Báo cáo do Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ cùng Cục Thông tin khoa học, công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp phát hành. Báo cáo được công bố tại Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo quốc gia 2024 chiều 27/11.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thực hiện nghi thức khai mạc Techfest Việt Nam 2024 và đánh dấu quá trình Hệ sinh thái Khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam chiều 27/11 tại Hải Phòng. Ảnh: Nhật Bắc
Qua gần 10 năm hình thành và phát triển, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, có sự phát triển mạnh. Tuy nhiên, hệ sinh thái vẫn còn ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển. Thông tin, dữ liệu vẫn còn rời rạc, phân tán, thiếu thống nhất, đồng bộ. Do đó, giảm hiệu quả hỗ trợ trong công tác quản lý, vận hành cũng như xây dựng hệ sinh thái quốc gia.
Báo cáo tổng quan hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam sẽ được Bộ Khoa học và Công nghệ phát hành hàng năm. Ngoài việc cung cấp thông tin và phân tích, báo cáo sẽ so sánh và đánh giá với một số hệ sinh thái trong khu vực và thế giới. Qua đó, đưa ra một số đề xuất, khuyến nghị để tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Theo báo cáo, khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn 2013 – 2016 chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể về cả số lượng và chất lượng, với 1.800 doanh nghiệp, 21 cơ sở ươm tạo và 7 tổ chức thúc đẩy kinh doanh. Đây là giai đoạn nhiều quỹ đầu tư nhận thấy tiềm năng lớn và thể hiện mong muốn đầu tư vào hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam.
Giai đoạn từ 2017 đến 2020 là thời điểm toàn cầu hóa. Lúc này, Chính phủ đã đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo bằng cách cung cấp hỗ trợ tài chính, thông qua chương trình thúc đẩy kinh doanh, cung cấp vốn rủi ro cho các doanh nghiệp mới thành lập. Thời gian này đã xuất hiện các chương trình hỗ trợ tập trung vào từng giai đoạn phát triển khác nhau của các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp đã biết cách thu hút và tận dụng nguồn lực tài chính từ các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Năm 2019, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 3 trong số các quốc gia ASEAN về tốc độ tăng trưởng của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, chỉ sau Indonesia và Singapore. Tỷ lệ lượng vốn đầu tư mạo hiểm trong tổng vốn đầu tư cho doanh nghiệp sáng tạo tại khu vực cũng đã tăng từ 5% (2018) lên 17%.
Giai đoạn từ 2021 đến nay là thời điểm gặp nhiều khó khăn và có bước chững lại. Tuy nhiên, hệ sinh thái đã phục hồi và đang tiến triển một cách ấn tượng. Cụ thể, năm 2021, Việt Nam đã ghi nhận mức đầu tư mạo hiểm kỷ lục với tổng số tiền đầu tư đạt 1,4 tỷ USD.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 3.800 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng và TP HCM. Ở các tỉnh, thành phố khu vực miền Trung, số lượng doanh nghiệp có sự chênh lệch không đáng kể.
Trong đó, 11 doanh nghiệp khởi nghiệp được định giá trên 100 triệu USD, 2 trong số đó đạt trạng thái kỳ lân với định giá trên 1 tỷ USD, gồm Momo và Sky Mavis. Tuy nhiên, kể từ năm 2021 đến nay, Việt Nam chưa có thêm kỳ lân mới. Một số doanh nghiệp sáng tạo được đánh giá là “soonicorn” (cận kỳ lân) đang gặp khó khăn trong hoạt động và mở rộng quy mô.
Phần lớn các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam ở giai đoạn đầu của vòng đời phát triển với giá trị doanh nghiệp tương đối thấp. Ngoại trừ một số doanh nghiệp đã khẳng định tên tuổi hoặc nhận được vốn đầu tư từ vài trăm nghìn đến vài chục triệu USD, đa phần các startup Việt vẫn đang trong giai đoạn ươm mầm, với định giá doanh nghiệp dưới 1 triệu USD.
Lê Tân/VnExpress
Nhiều địa phương, Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đang phối hợp với các tổ chức xúc tiến thương mại ở nước ngoài, kêu gọi vốn… để hỗ trợ các startup phát triển, thương mại hóa sản phẩm.
Thông tin được nêu tại Diễn đàn chính sách cấp cao về khởi nghiệp sáng tạo chủ đề “Từ địa phương ra quốc tế” tổ chức chiều 26/11 trong khuôn khổ Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest) năm 2024.
Chia sẻ kinh nghiệm của Đà Nẵng, ông Võ Đức Anh, Phó giám đốc Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cho biết thành phố có hơn 10 năm xây dựng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Trong thời gian này, Đà Nẵng ươm tạo gần 200 dự án, có 9 vườn ươm, 10 không gian làm việc chung…
Từ năm 2017 đến nay, Đà Nẵng dành gần 22 tỷ hỗ trợ khởi nghiệp, trong đó có 6,1 tỷ cho hoạt động ươm tạo, hỗ trợ dự án khởi nghiệp trong đại học. Với doanh nghiệp, thành phố có chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, sở hữu trí tuệ… giúp thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo.
Ông Võ Đức Anh, Phó giám đốc Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Đà Nẵng chia sẻ tại sự kiện. Ảnh: TTTT
Ông Võ Đức Anh cho biết, các hoạt động kết nối đa phương, mở rộng hợp tác với Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Mỹ… cũng được Đà Nẵng triển khai từ năm 2017.
Năm 2024, Đà Nẵng tổ chức Diễn đàn đầu tư thiên thần và mạo hiểm (Danang Venture and Angel Summit) mời 10 quỹ đầu tư trong nước và quốc tế. Diễn đàn thu hút 30 dự án trong nước và quốc tế tới gọi vốn pitching, biến Đà Nẵng thành thị trường gặp gỡ, gọi vốn, kết nối đầu tư. “Thông qua mạng lưới kết nối toàn cầu của địa phương, một số dự án khởi nghiệp của Đà Nẵng đã xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Nhật Bản và nhiều quốc gia khác”, ông Đức Anh nói.
Theo ông Anh, Đà Nẵng vừa được Trung ương thông qua Nghị quyết về cơ chế đặc thù với các nhóm chính sách hỗ trợ miễn thuế cho startup; miễn thuế trong hoạt động mua bán, chuyển nhượng, góp vốn của các hoạt động đầu tư; miễn giảm thuế thu nhập các nhân; sử dụng tài sản công hỗ trợ cho thuê không qua đấu giá cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo và cơ chế thử nghiệm có kiểm soát mô hình kinh doanh, công nghệ mới. Đây được coi là những lợi thế cạnh tranh của Đà Nẵng trong thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo và hợp tác quốc tế.
Chia sẻ kinh nghiệm tại Hàn Quốc, ông Park Dae Hee, Chủ tịch Trung tâm kinh tế sáng tạo và đổi mới TP Daejeon (CCEI), cho biết CCEI có các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, startup kết nối toàn cầu giúp họ phát triển thị trường. Đơn vị này có nhiều ký kết với đại học các nước trong đó có Việt Nam. Việc hợp tác nhằm tạo môi trường giao lưu, kết nối, đào tạo cho sinh viên hai nước. “Các hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế giúp CCEI đào tạo hơn 5.000 startup, phát triển cơ hội việc làm cho 30.000 người”, ông Park Dae Hee nói.
Các nhà quản lý, chuyên gia chia sẻ góc nhìn về hợp tác quốc tế tại diễn đàn. Ảnh: TTTT
Ông Nguyễn Trung Dũng, Giám đốc BK Holdings (Đại học Bách khoa Hà Nội), nhìn nhận hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam hiện khá đầy đủ trong các cấu phần, song sự kết nối chưa được như kỳ vọng.
Đánh giá cao hiệu quả hợp tác, kết nối quốc tế, song ông Dũng gợi ý thêm sáng kiến hình thành mạng lưới đổi mới sáng tạo khởi nghiệp đại học cao đẳng Việt Nam (VNEI) với sự tham gia của hơn 70 trường. Mục tiêu đưa ra sáng kiến này nhằm tăng cường vai trò của đại học trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp quốc gia. Sự kết nối các trường đại học nhằm hỗ trợ, đồng kiến tạo các dự án liên trường, liên ngành cũng như kết nối nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp. Theo ông, hiện Việt Nam chưa có đại học nào có công viên đổi mới sáng tạo. Do vậy các đại học cần kết hợp các tập đoàn, doanh nghiệp với sự hỗ trợ cơ quan nhà nước thực hiện việc này.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh nhấn mạnh giai đoạn tới hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam cần các thành tố mới, đó là các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp lớn với vai trò đầu tư, sử dụng các kết quả của tổ chức khởi nghiệp. Vì vậy cần chính sách phù hợp để thúc đẩy hệ sinh thái phát triển.
Techfest Việt Nam là một trong những sự kiện trọng điểm do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, nhằm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia theo Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng. Kể từ năm 2015, Techfest Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Bình Dương và Quảng Ninh…
Năm nay chương trình phối hợp với UBND Thành phố Hải Phòng, triển khai bởi Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Natec), Sở KH&CN Thành phố Hải Phòng. Sự kiện diễn ra tại khách sạn Pullman, số 12 Trần Phú, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
Chương trình là sự kiện thường niên lớn nhất dành cho khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam nhằm quy tụ các chuyên gia, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp uy tín trong và ngoài nước để đưa ra các định hướng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Vĩnh Hà/VnExpress
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định vai trò của khởi nghiệp sáng tạo trong việc tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo ra những thay đổi đột phá, kiến tạo thị trường, lĩnh vực mới.
Thủ tướng cùng lãnh đạo các bộ ngành đến sự kiện từ sớm. Ảnh: Lê Tân
Thông tin được Thủ tướng nói tại Lễ khai mạc Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest Vietnam) 2024 với chủ đề “Chung tay phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo” chiều 27/11.
Trong bài phát biểu Thủ tướng đánh giá cao vai trò của Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức hoạt động có ý nghĩa đối với việc thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam.
Theo Thủ tướng, khởi nghiệp sáng tạo đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của từng chủ thể, doanh nghiệp. Khởi nghiệp sáng tạo cũng tạo ra những thay đổi, kiến tạo thị trường, ngành và lĩnh vực mới.
Ông cũng chỉ ra nhiều điểm cần có sự chung tay để xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển trong kỷ nguyên mới. Thủ tướng nhấn mạnh phương châm 3 chung: chung sức đồng lòng, chung tay hành động, chung hưởng thành quả. Từ đó, ông mong muốn cộng đồng doanh nghiệp, nhất là thế hệ trẻ, dám đối diện với khó khăn, tạo nên những “kỳ lân” tầm cỡ khu vực và thế giới.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu khai mạc Techfest Vietnam 2024. Ảnh: Lê Tân
Trước đó trong phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đã dẫn kết quả cho thấy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ.
Bộ trưởng cho biết, năm 2024, Chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu của Việt Nam đã tăng hai bậc từ vị trí thứ 58 lên 56 (đứng thứ 5 tại khu vực Đông Nam Á và thứ 12 tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương). Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu liên tục được cải thiện qua các năm. Năm 2024 tăng 4 bậc so với năm 2022, xếp thứ 44/133 quốc gia, nền kinh tế.
“Nhờ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển mạnh mẽ, Việt Nam đang nổi lên là một trong những nền kinh tế năng động mới nổi và là trung tâm phát triển cho các doanh nghiệp khởi nghiệp ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, Bộ trưởng nói.
Theo Bộ trưởng, quá trình phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể số lượng và chất lượng. Từ những bước đầu tiên, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam đã thành điểm sáng không chỉ trong khu vực mà trên toàn thế giới, nâng tầm Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ba nhóm khó khăn cần gỡ để thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo
Tại lễ khai mạc, ông Lim Jungwook, Thứ trưởng, Bộ Doanh nghiệp vừa và nhỏ & Khởi nghiệp Hàn Quốc đã chia sẻ kinh nghiệm xây dựng chính sách phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Hàn Quốc. Theo ông nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, tạo cơ chế thúc đẩy phát triển hệ sinh thái, tạo hành lang giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển.
Đại diện góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Bá Diệp, đồng sáng lập MOMO – kỳ lân công nghệ Việt Nam, chia sẻ về sự khác biệt giữa Doanh nghiệp SME – và Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong hệ sinh thái khởi nghiệp.
Theo ông Diệp, hai loại hình doanh nghiệp này đang bị hiểu nhầm lẫn nhau, trong khi có sự khác biệt lớn. Các doanh nghiệp startup sử dụng công nghệ bằng những phương pháp đột phá, chưa có tiền lệ để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Doanh nghiệp này sẽ sử dụng bài toán lớn, cần vốn nhiều và mô hình rộng. Ngược lại doanh nghiệp SME là doanh nghiệp sinh kế, triển khai trên những mô hình đã được kiểm chứng, như mở một quán phở hay xưởng may. Mô hình này ưu tiên có doanh thu ngay và thường sự phát triển rất chậm, ổn định, tính rủi ro thấp.
Hiện Chính phủ đang thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, “mô hình khởi nghiệp sáng tạo sẽ là đòn bẩy để thực hiện điều này”, ông Diệp nói và cho rằng những doanh nghiệp thành công trên thế giới đều là doanh nghiệp công nghệ như Google, Facebook…
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thực hiện nghi thức khai mạc Techfest Việt Nam 2024 và đánh dấu quá trình Hệ sinh thái Khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam. Ảnh: Nhật Bắc
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn, lớn nhất là chính sách và hành lang pháp lý. Vấn đề này cũng được đề cập ở phần 2 của chương trình, Diễn đàn với chủ đề “Chung tay phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia”.
Thảo luận tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Thanh Bình cho biết hơn 10 năm qua, Bộ Ngoại giao đồng hành cùng Bộ Khoa học và Công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư cụ thể hóa chương trình, các chính sách với 6 nhóm hoạt động lớn liên quan hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo. Qua thực tế chỉ ra có ba nhóm khó khăn thách thức kết nối mạng lưới người Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.
Thứ nhất về thể chế chính sách với hệ thống pháp luật chưa bắt kịp nhu cầu, tốc độ hội nhập với đổi mới sáng tạo, tương thích với tiêu chuẩn thông lệ quốc tế.
Thứ hai là hỗ trợ nguồn lực không chỉ tiền mà cơ chế chính sách đãi ngộ mang tính đặc thù vì khởi nghiệp sáng tạo cần đầu tư ban đầu cao, thu hồi vốn kéo dài, thậm chí có rủi ro. Nên cần có cơ chế hỗ trợ đặc thù về tài chính, vốn ưu đãi hơn so với các ngành khác.
Thứ ba, hoạt động kết nối trong mạng lưới người Việt Nam ở nước ngoài, giữa mạng lưới, trong và ngoài nước đang ở giai đoạn bước đầu, chưa thật sự mở rộng về diện nâng cao về chất.
Thứ trưởng Hoàng Minh (giữa) điều phối diễn đàn chiều 27/11. Ảnh: TTTT
Các đại diện đến từ Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung ương Đoàn TNCS HCM… đều đồng tình với những khó khăn doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đang đối mặt. Các ý kiến đề xuất tạo cơ chế, không gian và thiết bị cho các thành tố trong hệ sinh thái có thể hoạt động, giúp Việt Nam bắt kịp các công nghệ thay đổi nhanh chóng trên thế giới.
Techfest Việt Nam là một trong những sự kiện trọng điểm do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, nhằm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia theo Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng. Kể từ năm 2015, Techfest Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Bình Dương và Quảng Ninh…
Năm nay chương trình phối hợp với UBND Thành phố Hải Phòng, triển khai bởi Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Natec), Sở KH&CN Thành phố Hải Phòng. Sự kiện diễn ra tại khách sạn Pullman, số 12 Trần Phú, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
Chương trình là sự kiện thường niên lớn nhất dành cho khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam nhằm quy tụ các chuyên gia, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp uy tín trong và ngoài nước để đưa ra các định hướng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Lê Tân – Phương Minh – Hà An/VnExpress
Trong khuôn khổ Tuần lễ số quốc tế Việt Nam 2024, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức Hội nghị 5G ASEAN lần thứ 5 và Diễn đàn quốc tế về Chiến lược số, Chính sách và Quản trị trí tuệ nhân tạo với sự tham dự của các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách, các tổ chức từ các nước trong khu vực.
Tầm quan trọng của phát triển mạng 5G
Các đại biểu đã chia sẻ những thông tin mới nhất về quá trình triển khai mạng 5G tại các quốc gia trong khu vực ASEAN.
Hội nghị 5G ASEAN là sáng kiến của Việt Nam, được triển khai từ năm 2018, nhằm đẩy mạnh phối hợp trong khu vực về chính sách, đầu tư, phát triển công nghệ, dịch vụ và ứng dụng mạng 5G.
Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phan Tâm, tầm quan trọng của mạng 5G chưa bao giờ rõ ràng hơn thế. Mạng 5G không chỉ là bước đột phá về công nghệ mà còn là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và đổi mới sáng tạo. Công nghệ này đang chuyển đổi các ngành công nghiệp, tạo ra các mô hình kinh doanh mới và cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Các ứng dụng của 5G rất rộng lớn và đa dạng, từ các thành phố thông minh đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe, xe tự hành và trải nghiệm. Hội nghị mang đến cho các nước cơ hội tuyệt vời để trao đổi ý tưởng, chia sẻ các phương pháp hay nhất và xây dựng các quan hệ đối tác mới. Bằng cách hợp tác, mọi người có thể xây dựng một ASEAN kết nối hơn, bền vững và thịnh vượng hơn.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã chia sẻ những thông tin mới nhất về quá trình triển khai mạng 5G tại các quốc gia ASEAN, đồng thời giới thiệu những công nghệ tiên tiến và bàn luận về hệ thống mạng truy cập vô tuyến mở (Open RAN). Bằng cách thúc đẩy một hệ sinh thái cởi mở và cạnh tranh hơn, Open RAN sẽ thúc đẩy sự đổi mới, giảm chi phí và tăng cường tính linh hoạt của mạng. Điều này sẽ cho phép các nhà cung cấp dịch vụ cung cấp nhiều dịch vụ hơn và đáp ứng các nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Các chủ đề được tập trung thảo luận bao gồm: xây dựng khung pháp lý cho mạng 5G, đổi mới công nghệ, phát triển hệ sinh thái và các giải pháp thúc đẩy hợp tác khu vực. Ngoài việc giới thiệu tiến bộ về công nghệ, hội nghị còn nhấn mạnh sự cần thiết của việc chuẩn hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo tính đồng nhất trong toàn khu vực ASEAN. Các quốc gia thành viên đã thống nhất về việc hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, nhằm đưa ASEAN trở thành một trong những khu vực tiên phong về công nghệ mạng 5G.
Diễn đàn quốc tế về Chiến lược số, Chính sách và Quản trị trí tuệ nhân tạo
Diễn đàn quốc tế về Chiến lược số, Chính sách và Quản trị trí tuệ nhân tạo.
Diễn đàn quốc tế về Chiến lược số, Chính sách và Quản trị trí tuệ nhân tạo được tổ chức với sự tham gia của các chuyên gia và đại diện từ Việt Nam và Australia. Theo đó, các chuyên gia, cơ quan quản lý, doanh nghiệp của Việt Nam và Australia đã trao đổi, chia sẻ thông tin về tiêu chuẩn dịch vụ số; chính sách trải nghiệm số, lộ trình triển khai; mục tiêu cho lộ trình chuyển đổi số; nội dung then chốt của chuyển đổi số… Đồng thời, trao đổi về một số nội dung liên quan đến trí tuệ nhân tạo như: Quy định đảm bảo an ninh mạng, chính sách thúc đẩy trí tuệ nhân tạo, giao trách nhiệm cho cán bộ, tiêu chuẩn về kỹ thuật…
Các chuyên gia đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế pháp lý và khung tiêu chuẩn cụ thể để đảm bảo sự phát triển bền vững của trí tuệ nhân tạo trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Việc hợp tác quốc tế và chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia được coi là chìa khóa giúp Việt Nam nhanh chóng bắt kịp xu hướng công nghệ toàn cầu.
Hội nghị 5G ASEAN lần thứ 5 và Diễn đàn quốc tế về Chiến lược số, Chính sách và Quản trị trí tuệ nhân tạo là những sự kiện quan trọng trong khuôn khổ Tuần lễ số quốc tế Việt Nam 2024. Chương trình do Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức tại TP Hạ Long từ ngày 19-22/11/2024.
Các hoạt động trong Tuần lễ số quốc tế không chỉ tập trung vào 5G và trí tuệ nhân tạo, mà còn bao gồm nhiều hội thảo, diễn đàn chuyên sâu về chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, và khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tăng cường hợp tác. Đây được xem là cơ hội để Việt Nam khẳng định vị thế của mình trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông khu vực, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia.
PT/Tạp chí KHCN
Ngày 20/11/2024, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã công bố Kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn voi tại Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn 2050 (VECAP 2022). Đây là một cột mốc quan trọng trong nỗ lực bảo vệ voi, lồng ghép các sáng kiến thí điểm, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và phát triển chính sách nhằm đảm bảo sự sống còn và phát triển bền vững của loài voi tại Việt Nam trong những thập kỷ tới.
Kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn voi tại Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn 2050 được xây dựng trên cơ sở khoa học, là kết quả của sự hợp tác giữa Cục Lâm nghiệp và Tổ chức Humane Society International (HSI) từ năm 2019. Kế hoạch đề ra 33 nhóm giải pháp/hành động dành cho voi hoang dã và 21 nhóm giải pháp/hành động dành cho voi nuôi nhốt, triển khai từ nay đến năm 2035 với tầm nhìn đến năm 2050, nhằm bảo tồn và phát triển/gia tăng số lượng voi tại Việt Nam, đồng thời thúc đẩy sự chung sống hài hòa giữa voi và cộng đồng con người. Các mục tiêu dài hạn bao gồm mở rộng hệ thống khu bảo tồn, tăng cường các biện pháp chống săn bắt và phát triển du lịch sinh thái, vừa hỗ trợ công tác bảo tồn vừa thúc đẩy kinh tế địa phương, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện kế hoạch.
Trước đó, trong các năm từ 1996, 2006, 2012, 2013 và 2022, Việt Nam đã ban hành một chương trình hành động cấp Bộ và 3 kế hoạch, đề án cấp Chính phủ để bảo tồn voi do tầm quan trọng của loài này. Tương ứng với từng giai đoạn, công tác bảo tồn voi đã có những kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt vào năm 2019, Chương trình thí điểm bảo tồn voi theo hướng chung sống hài hòa được tiến hành tiên phong tại tỉnh Đồng Nai, với 3 sáng kiến “Giám sát voi bằng bẫy ảnh”; “Giám sát xung đột voi người” nhằm cải thiện việc quản lý hiện tại hướng tới chung sống hài hòa và “Quản lý vùng sống và sinh cảnh của voi”.
Kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn voi đến năm 2035, tầm nhìn đến 2050, thể hiện cam kết của Việt Nam về một chiến lược thống nhất, tôn trọng văn hóa, đảm bảo tương lai cho loài voi quý giá này.
CT/Tạp chí KHCN
Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) năm 2013 là cơ sở pháp lý quan trọng, đóng vai trò trung tâm trong hệ thống các văn bản pháp luật về KH&CN. Nội dung các quy định Luật của KH&CN được xây dựng trên tinh thần thể chế hóa quan điểm của Hiến pháp: “Phát triển KH&CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”. Bài viết điểm lại một số kết quả nổi bật đạt được qua 10 năm thi hành Luật KH&CN 2013 trong công tác quản lý nhà nước.
Bài 1: Với công tác quản lý nhà nước
Về xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật
Để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật KH&CN năm 2013, Bộ KH&CN đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ ban hành 11 nghị định (04 nghị định đã được sửa đổi, bổ sung), trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định quy phạm pháp luật, ban hành theo thẩm quyền 53 thông tư đang có hiệu lực.
Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan ngang bộ và UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai thực hiện các quy định của Luật KH&CN năm 2013 và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Tính đến tháng 8/2024, tổng số văn bản do các bộ, ngành, địa phương ban hành để triển khai Luật KH&CN là 558 văn bản.
Nhìn chung đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về KH&CN tương đối đầy đủ, đồng bộ, tạo khung pháp lý cần thiết cho việc triển khai hoạt động KH&CN.
Về tuyên truyền, phổ biến Luật
Ngay sau khi Luật được Quốc hội thông qua, Bộ KH&CN, các bộ, ngành đã tích cực triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến nội dung Luật với nhiều hình thức đa dạng như: tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, truyền thông; tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức chung cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước về pháp luật về KH&CN cũng như vai trò KH&CN trong thúc đẩy kinh tế – xã hội… Tại các địa phương, công tác phổ biến pháp luật về KH&CN cũng được chính quyền các địa phương quan tâm, tích cực triển khai như: tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn cho các doanh nghiệp trên địa bàn; xây dựng phim tài liệu về nội dung của Luật KH&CN năm 2013 và phát sóng trên Đài Phát thanh và truyền hình; tuyên truyền trên phương tiện truyền hình, báo viết và hệ thống truyền thanh cấp huyện, cấp xã; biên soạn, in ấn và phát hành tờ rơi, tờ gấp, phát động phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học; phong trào thi đua và tổ chức các hội thi sáng tạo kỹ thuật.
Nhìn chung, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật KH&CN năm 2013 đã được tiến hành một cách bài bản, nghiêm túc, bảo đảm tính kịp thời và khoa học. Qua đó, đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của KH&CN trong sự nghiệp phát triển của đất nước.
Về xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Một trong những điểm nổi bật của Luật KH&CN năm 2013 là xác định rõ trách nhiệm đề xuất đặt hàng và tiếp nhận, tổ chức ứng dụng kết quả của các nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực và UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương. Từ khi Luật KH&CN năm 2013 có hiệu lực, số nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước được hoàn thành và đăng ký kết quả thực hiện hằng năm liên tục tăng dần.
Về Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia, trong giai đoạn 2016-2020 có 07 chương trình được triển khai thực hiện, trong đó 06 chương trình thuộc lĩnh vực KH&CN (chương trình KC) và 01 chương trình thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (chương trình KX.01/16-20). Giai đoạn 2016-2020 là một trong những giai đoạn đặc biệt khó khăn cho việc triển khai các nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ có thời gian triển khai và kết thúc vào năm 2020 khi đại dịch COVID-19 xảy ra, dẫn đến công tác quản lý nhiệm vụ cũng có nhiều thay đổi để phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, kết thúc thời gian thực hiện Chương trình đã có 200 nhiệm vụ có kết quả “Đạt” và 40 nhiệm vụ có kết quả “Xuất sắc” (chiếm 94% các nhiệm vụ KH&CN của các chương trình đã được đánh giá nghiệm thu).
Các nhiệm vụ của 06 chương trình KC đã tạo ra 469 loại sản phẩm dạng 1 trong đó có: 103 loại thiết bị máy móc, 85 loại vật liệu, 31 dây chuyền công nghệ, 69 là các mẫu, mô hình, 136 loại sản phẩm là hàng hóa có thể tiêu thụ và những sản phẩm khác như giống cây trồng, chủng nấm… Các đề tài, dự án trong khuôn khổ các chương trình cũng đã tiến hành thương mại hoá sản phẩm. Tổng giá trị các hợp đồng chuyển giao công nghệ và thương mại hóa (các sản phẩm của KC.02, KC.05) đạt khoảng 150 tỷ đồng. Ngoài ra, các nhiệm vụ đã xây dựng được 384 giải pháp, quy trình công nghệ, 90 cơ sở dữ liệu/bộ số liệu, 60 phần mềm các loại, tạo ra 122 bản vẽ thiết kế, 347 sơ đồ/ bản đồ…
Với việc tích hợp 03 chương trình KX vào 01 chương trình (KX.01/16-20) số nhiệm vụ được phê duyệt và đưa vào triển khai là 52 nhiệm vụ, được phân bổ cho 04 nội dung chính với 25 chủ đề tập trung vào những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Số lượng nhiệm vụ này bằng 50% tổng số lượng nhiệm vụ của 05 chương trình thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn giai đoạn 2011-2015. Các kết quả nghiên cứu tiếp tục đóng góp về luận cứ khoa học trong việc kiến nghị nhằm hoạch định chính sách và hoàn chỉnh cơ chế quản lý, có nhiều kết quả nghiên cứu đã góp phần xây dựng và hoàn thiện văn kiện phục vụ Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Qua cơ chế đặt hàng, nhiệm vụ được triển khai xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của địa phương và vùng, vì thế kết quả nghiên cứu đã gắn sát với thực tiễn, có khả năng ứng dụng ngay trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhất là đối với các kết quả có khả năng thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng các sản phẩm chủ lực, sản phẩm có thế mạnh của địa phương và của Vùng, qua đó tạo công ăn việc làm, góp phần thay đổi tập quán, thói quen canh tác của người nông dân, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương.
Về việc triển khai nhiệm vụ KH&CN thông qua quỹ, từ năm 2014 đến hết năm 2023, Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia đã tài trợ 2.662 nhiệm vụ KH&CN tương đương cấp quốc gia. Tài trợ của Quỹ đã thúc đẩy mạnh mẽ nâng cao chất lượng nghiên cứu theo hướng hội nhập quốc tế (mỗi đề tài trung bình đạt kết quả hơn 02 công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế thuộc cơ sở dữ liệu Web of Science), gia tăng nguồn nhân lực nghiên cứu KH&CN chất lượng cao, qua đó đóng góp tăng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (năm 2024 Việt Nam xếp 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023, trong đó có 3 chỉ số đứng đầu thế giới) cũng như chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam.
Về đổi mới sáng tạo, giai đoạn năm 2016 đến năm 2020, các chính sách phát triển về đổi mới sáng tạo đã được triển khai thông qua các đề án, chương trình như: Chương trình quốc gia Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020; Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”; Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020; Chương trình Phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025… Các chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo về cơ bản đã được triển khai nghiêm túc. Các đề án về ứng dụng, chuyển giao công nghệ đã giúp khảo sát, tìm kiếm, giới thiệu, quảng bá, hỗ trợ tư vấn chuyển giao và đổi mới công nghệ; thúc đẩy hoạt động kết nối trong cộng đồng sáng tạo, thành lập sản giao dịch, tổ chức các hội chợ, phát triển tổ chức trung gian thị trường KH&CN. Về thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các hoạt động ươm tạo, tăng tốc kinh doanh, tiếp cận nguồn lực đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ khác cho startup, xây dựng các chỉ số đánh giá đổi mới sáng tạo… đã góp phần giúp hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam với đầy đủ các thành phần gồm có: các cá nhân/tổ chức khởi nghiệp sáng tạo, nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức hỗ trợ (cơ sở ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở địa phương), công viên nghiên cứu, trường đại học, mạng lưới các huấn luyện viên/tư vấn, các cơ sở hỗ trợ nghiên cứu khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học, viện nghiên cứu.
Về hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về KH&CN với hơn 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ; hơn 150 hiệp định, thỏa thuận hợp tác KH&CN. Trong đó, riêng trong giai đoạn 2011-2020, đã có 25 điều ước quốc tế (cấp Chính phủ) và thỏa thuận quốc tế (cấp Bộ) về hợp tác trong lĩnh vực KH&CN được ký kết. Việc tham gia vào các diễn đàn đa phương về KH&CN được thúc đẩy trên tinh thần chủ động, tích cực, trách nhiệm, đóng góp tích cực vào hoạt động chung, tranh thủ thúc đẩy quan hệ song phương với các nước thành viên của tổ chức; dần trở thành đối tác hợp tác bình đẳng và cùng có lợi trong các quan hệ hợp tác quốc tế song phương và đa phương về KH&CN.
Trong giai đoạn vừa qua, hợp tác và hội nhập quốc tế về KH&CN đã được triển khai khá tích cực. Hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong giai đoạn 2014-2024 cho thấy đã có sự thay đổi rõ nét trong chính sách hợp tác KH&CN của Việt Nam với các đối tác nước ngoài theo hướng các bên cùng chia sẻ trách nhiệm và tài chính, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Ngày càng nhiều khuôn khổ hợp tác mới được hình thành với sự tham gia tích cực và chủ động hơn của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài trở về. Nhiều cán bộ KH&CN của Việt Nam đã tham gia một cách tích cực và chủ động vào hoạt động hợp tác nghiên cứu, đào tạo thuộc các chương trình, dự án quan trọng của ASEAN, APEC, IAEA, WIPO, UNESCO…; các chương trình, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ lớn như Chương trình Horizon 2020 của EU, Chương trình Đồng tài trợ cho Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo Đông Nam Á – Châu Âu (SEA-EU JFS), Chương trình Nghiên cứu chung Đông Á (e-ASIA JRP); Chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo Australia – Việt Nam (A4I); tham gia vào các dự án hợp tác nghiên cứu về các vấn đề được quốc tế và khu vực quan tâm.
Công tác hợp tác, liên kết đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ KH&CN cũng được chú trọng triển khai nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu của công tác hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới.
Thông qua các hoạt động trình diễn kết nối cung cầu công nghệ (TechDemo) hàng năm, các hội nghị, hội thảo, tọa đàm quốc tế cũng như qua quá trình nghiên cứu, tìm kiếm, Bộ KH&CN đã xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên gia quốc tế với hơn 500 công nghệ nước ngoài thuộc các lĩnh vực công nghệ, vật liệu, năng lượng, v.v, phục vụ công tác giới thiệu, hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ cho các tổ chức, doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam. Việc kết nối với chuyên gia công nghệ quốc tế để cùng triển khai các chương trình, dự án, trao đổi kinh nghiệm về chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ… cũng được tăng cường.
CT/Tạp chí KHCN
Ngày 20/11/2024, Tập đoàn Vingroup thông báo chính thức thành lập Công ty Cổ phần Nghiên cứu phát triển và Ứng dụng người máy (VinRobotics) với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng. Mục tiêu của VinRobotics là góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tối ưu hóa quy trình trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đời sống.
VinRobotics hoạt động trong các lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ tiên tiến, đặc biệt là các giải pháp tự động hóa, robot công nghiệp và trí tuệ nhân tạo (AI). Công ty tập trung sản xuất và tích hợp các sản phẩm người máy và robot thông minh, nhằm cung cấp các giải pháp tối ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả công việc trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đời sống. Song song với việc phát triển các công nghệ sáng tạo, VinRobotics sẽ tập trung vào việc phát triển ứng dụng cho các doanh nghiệp, qua đó tối ưu hóa quy trình và thúc đẩy hiệu suất công việc. Khách hàng của VinRobotics không chỉ giới hạn là các công ty trong hệ sinh thái Vingroup mà sẽ mở rộng sang các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành kinh tế, công nghiệp trọng điểm khác.
Mục tiêu của VinRobotics là phát triển thành một đơn vị tiên phong trong việc cung cấp các sản phẩm và giải pháp công nghệ cao thông minh tại Việt Nam và khu vực.
Theo Tổng Giám đốc VinRobotics Ngô Quốc Hưng: Trong kỷ nguyên công nghệ, các sản phẩm, giải pháp có hàm lượng chất xám cao sẽ đóng góp lớn cho sự phát triển chung của toàn xã hội. VinRobotics tin tưởng rằng, các sản phẩm và giải pháp tự động hóa từ Công ty sẽ mang lại giá trị lâu dài, không chỉ cho Tập đoàn Vingroup mà còn cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và thế giới.
Lĩnh vực tự động hóa và robot công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT) và các công nghệ tiên tiến, robot thông minh ngày càng trở thành yếu tố không thể thiếu trong các dây chuyền sản xuất của các nhà máy 4.0, cũng như trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Việc thành lập VinRobotics là một bước đi quan trọng, góp phần hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp – công nghệ cao, một trong 3 trụ cột cốt lõi của Tập đoàn Vingroup, bên cạnh thương mại dịch vụ và thiện nguyện xã hội. Hiện tại, Vingroup đang dẫn đầu Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, với mũi nhọn tiên phong là ô tô điện thương hiệu VinFast; các công nghệ thông minh trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn với các thương hiệu VinBigdata, VinAI, VinBrain…
CT/Tạp chí KHCN.