Công đoàn Bộ KH&CN tổ chức Giải bóng đá nam năm 2024

Trong 2 ngày, từ 25-26/6/2024, diễn ra Lễ khai mạc và trao giải thưởng Giải bóng đá nam năm 2024 do Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức nhằm chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Công đoàn Viên chức Việt Nam, 95 năm thành lập Công đoàn Việt Nam.

Tham dự có các đội bóng đến từ các đơn vị thuộc Bộ: KH&CN; Tài nguyên và Môi trường; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Tài chính; Kế hoạch và Đầu tư; Nội vụ; Ngoại giao; Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia; Tạp chí cộng sản; Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam; Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy cùng các cầu thủ trước giờ thi đấu. 
Ông Hà Quốc Trung – Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin, Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN cho biết: Giải bóng đá nam năm 2024 được tổ chức nhằm nâng cao sức khỏe, tạo sân chơi lành mạnh cho các đoàn viên thanh niên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động (CCVCNLĐ). Đồng thời, giúp tăng cường sự gắn kết, phối hợp giữa các đơn vị, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, góp phần giúp cán bộ CCVCNLĐ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của đơn vị mình.
Ông Hà Quốc Trung phát biểu khai mạc Giải bóng đá nam năm 2024.
Trong không khí vui tươi, phấn khởi, các đội bóng đã bước vào thi đấu với tinh thần tôn trọng, giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cầu thủ các đội bóng đã mang đến một bầu không khí sôi nổi, cống hiến nhiều pha bóng hay, kịch tính, hấp dẫn, với những bàn thắng đẹp mắt.
Các đại biểu trao cờ lưu niệm cho đội bóng trước giờ thi đấu.
Kết thúc 2 ngày thi đấu, đội bóng đá Bộ KH&CN đã xuất sắc giành giải Nhất và Cúp vô địch; giải Nhì được trao cho đội bóng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; giải Ba được trao cho đội bóng Tạp chí Cộng sản; giải Tư được trao cho đội bóng Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam. Ngoài ra, Ban Tổ chức còn trao 01 giải cho thủ môn xuất sắc và 01 giải dành cho cầu thủ xuất sắc.
Một số hình ảnh Giải bóng đá:
Ông Phạm Gia Chương, Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ Bộ KH&CN trao giải Nhất và Cúp vô địch.
Ông Hà Quốc Trung, Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN trao giải Nhì.
Bà Nguyễn Thị Huệ, Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam trao giải Ba.
Bà Lê Thị Tường Thu – Chủ tịch Công đoàn Bộ Kế hoạch và Đầu tư trao giải Khuyến khích.
Ông Phạm Gia Chương, Phó bí thư thường trực Đảng uỷ Bộ KH&CN trao giải cho cầu thủ xuất sắc.
Ông Hà Quốc Trung, Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN trao giải cho thủ môn xuất sắc.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ

Đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học và công nghệ là một trong những khâu đột phá, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động và bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững cho các quốc gia. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ tầm quan trọng và từ đó xác định nội dung, biện pháp, điều kiện thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở Việt Nam. Những quan điểm đó vẫn vẹn nguyên giá trị đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo ở nước ta hiện nay.

  • Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội (ngày 16-7-1960)_Ảnh: Tư liệu
Lịch sử dân tộc đặt ra cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam những nhiệm vụ vô cùng to lớn, khó khăn, đó là: Đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của những nước thực dân, đế quốc hùng mạnh để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; cải tạo xã hội cũ nghèo nàn lạc hậu với những tàn tích phong kiến, thực dân, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhận thức sâu sắc đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, với tầm nhìn vượt thời đại, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ và coi đó là khâu then chốt trong sự nghiệp cách mạng giải phóng và phát triển. Nghiên cứu các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những chỉ đạo thực tiễn của Người, có thể thấy một hệ thống tư tưởng sâu sắc, toàn diện về đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, trong đó, quan điểm về các biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ có vị trí quan trọng. Hệ thống tư tưởng đó không chỉ góp phần thiết thực giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan của cách mạng Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử trước đây, mà ngày nay vẫn chứa đựng những giá trị định hướng, gợi mở quan trọng đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp thu thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong nước và tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kỹ thuật trong nhân dân.
Đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực chất chính là khơi dậy và phát huy sức mạnh của trí tuệ Việt Nam, là nguồn lực quan trọng giúp dân tộc Việt Nam đánh bại các lực lượng thực dân, đế quốc hùng mạnh, cũng như giành chiến thắng trong “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong bản Di chúc thiêng liêng của Người. Giải phóng dân tộc là cả một thành tựu vĩ đại của trí tuệ Việt Nam, của đổi mới, sáng tạo, kết tinh ở học thuyết Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong xây dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Người khẳng định: “Nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi”(1).
Về biện pháp thực hiện nhiệm vụ đó, theo Người, đầu tiên cần trân trọng tiếp thu thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại. Nhận thức rõ thời đại mới là thời đại của khoa học và công nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn cởi mở, thể hiện tinh thần khoan dung văn hóa đối với các tài nguyên trí tuệ, tri thức của nhân loại. Đối với hệ tư tưởng Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chỉ dẫn khách quan: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”(2). Để tiếp thu trí tuệ nhân loại, Người chú trọng việc cử thanh niên Việt Nam ra nước ngoài đào tạo, bồi dưỡng. Theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều học sinh, sinh viên đã được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có trình độ phát triển cao về khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Nhiều người trong số đó sau khi trở về đã trở thành những nhà khoa học hàng đầu của đất nước. Có những người vẫn ghi nhớ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi họ rời Tổ quốc: “Các chú sắp được sang học ở Liên Xô. Liên Xô là nước có trình độ khoa học – kỹ thuật cao. Các chú sang đó học để làm gì? Có phải học cho thông thạo để có địa vị không? Học để phụng sự nhân dân. Làm sao để dân có cơm no, áo ấm, có sức khỏe. Dân đói bụng, đưa rượu sâm-banh, dân rét đưa ca-ra-vát ra có đúng không? Nên học cái gì thiết thực, dân cần dùng. Bây giờ các chú đi học ở một nước có trình độ cao so với nước ta. Ði học, bê cả các thứ về một cách máy móc thì vô dụng, không làm gì cả. Học cách người ta làm, cách xếp đặt, những cái to lớn từ đâu mà ra. Học để biết mà dùng, mà áp dụng theo từng hoàn cảnh của ta. Học, dùng phải đi đôi với nhau, nhằm một mục đích phụng sự nhân dân”(3). Trân trọng nghiên cứu, tiếp thu tri thức khoa học tiên tiến của nhân loại và áp dụng sao cho phải phù hợp với điều kiện nước ta đến nay vẫn là bài học lớn trong phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta.
Cùng với tiếp nhận tri thức khoa học từ bên ngoài, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong nước cũng là biện pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Người nêu quan điểm: “Các cán bộ quân sự thì phải nghiên cứu khoa học quân sự, cán bộ y tế phải nghiên cứu y học. Cán bộ môn nào thì nghiên cứu lý luận của môn ấy”(4). Người nhắc đến tấm gương nhà khoa học nữ người Trung Quốc là Lý Mận Hoa để cổ vũ tinh thần hăng say lao động trí óc của chuyên gia nước nhà: “Bà Lý vừa nuôi con, vừa làm việc nhà, vừa nghiên cứu khoa học. Thật là khó nhọc, nhưng bà Lý quyết tâm học cho kỳ được. Kết quả bà Lý đã thành một nhà động lực học nổi tiếng” và nhấn mạnh: “Lao động chân tay, lao động trí óc, bất kỳ làm việc gì hễ có ích cho xã hội đều là vẻ vang, đều được nhân dân quý trọng”(5).
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kỹ thuật trong quần chúng nhân dân. Tuyên truyền, phổ biến tri thức không chỉ để thỏa mãn quyền lợi căn bản của người dân là được hưởng thụ những thành quả của khoa học, để lao động trí óc gắn chặt với lao động chân tay, để tri thức khoa học, kỹ thuật đi vào thực tiễn, được ứng dụng trong thực tiễn, mà sâu xa hơn là để tạo điều kiện nâng cao dân trí, phát huy trí tuệ của nhân dân, để các tầng lớp nhân dân có điều kiện tham gia đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng rằng, quần chúng nhân dân, một khi được cổ vũ, động viên sẽ phát huy được nguồn lực trí tuệ vô tận trong sự nghiệp cách mạng. Người viết: “Tư tưởng của quần chúng thông, lực lượng và trí tuệ của quần chúng sẽ vô cùng vô tận, khó khăn gì cũng vượt được, công việc to mấy cũng làm nên”(6).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới chế độ thực dân phong kiến, khoa học chịu sự chi phối và thao túng bởi giai cấp thống trị, đồng thời cũng trở thành phương tiện để chúng áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Ngược lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, khoa học là tài sản chung của toàn dân chứ không phải là tài sản riêng của một nhóm người nào, do đó cần được ứng dụng vào việc tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy tiến bộ của xã hội. Do vậy, Người yêu cầu, đội ngũ trí thức, nhất là trí thức khoa học “phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động… Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt”(7). Người lưu ý rằng, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, phổ biến rộng rãi những tri thức khoa học, kỹ thuật trong quần chúng nhân dân gắn liền với trách nhiệm quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ để người dân có thể trở thành chủ thể sáng tạo, đó là điều Hồ Chí Minh luôn trăn trở, căn dặn các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên: “Sau khi đã phổ biến, ta phải theo dõi, giúp đỡ quần chúng học tập và áp dụng cho tốt. Nếu chỉ phổ biến rồi bỏ mặc quần chúng, không quan tâm theo dõi họ thực hiện được hay là không, kết quả tốt hay là xấu, như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm”(8). Có thể thấy, đẩy mạnh phổ biến tri thức, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò của đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ; khơi dậy tinh thần và khát vọng sáng tạo trong nhân dân; góp phần hình thành văn hóa đổi mới, sáng tạo, để xã hội ngày càng tôn trọng khoa học và có tư duy sáng tạo là biện pháp mang tính chiến lược, góp phần phát huy nguồn sức mạnh của nhân dân trong cách mạng.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2023 (VIIE 2023) _Ảnh: TTXVN
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn khoa học, kỹ thuật phát triển thì con người là nhân tố quyết định. Để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, “dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”, cần phải ra sức phát triển nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật.
Trước hết, Người yêu cầu phải có chính sách giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ trí thức cách mạng nói chung và trí thức khoa học, kỹ thuật nói riêng. Chỉ một tuần sau khi đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân xóa nạn mù chữ. Người chú trọng đào tạo tri thức khoa học, kỹ thuật cho thế hệ trẻ. Trong Bài nói tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam (tháng 5-1963), Người căn dặn: “Hội còn có nhiệm vụ dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học, kỹ thuật, làm cho các cháu ngay từ thuở nhỏ đã biết yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những người có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học”(9). Người nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống các trường đại học và trường trung học chuyên nghiệp và có sự “phối hợp chặt chẽ với các ngành, các địa phương, đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, tập trung cũng như tại chức”(10), nhằm đào tạo lực lượng khoa học, kỹ thuật chuyên nghiệp. Với sự quan tâm, sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật của chế độ mới từng bước hình thành và lớn mạnh, bao gồm lực lượng của toàn dân, nguồn nhân lực trong tương lai và lực lượng hoạt động khoa học, kỹ thuật chuyên nghiệp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, trong quá trình xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật, bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ khoa học và kỹ thuật, việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong cũng cần hết sức coi trọng. Theo Người, một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức, tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để trở thành trí thức, bởi một người có trình độ học vấn cao chỉ có thể trở thành trí thức khi người đó đem tri thức của mình áp dụng vào hoạt động lao động, sáng tạo, áp dụng vào thực tiễn sản xuất, để phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. Với người trí thức, trong đó có trí thức khoa học, kỹ thuật, thì tài phải đi đôi với đức, trong đó đức là gốc, bởi: “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”(11).
Trong bối cảnh hiện nay, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo phát triển toàn diện, cả đức và tài vẫn mang tính thời sự. Thực tiễn cho thấy, phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, lòng tự tôn, tự trọng thực sự là nền tảng, là động lực để tài năng của đội ngũ trí thức khoa học, công nghệ phát triển và để tài năng không trở thành “vô dụng” đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo.
Ngoài việc trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật của chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trọng dụng các trí thức tài năng, đức độ mà chế độ cũ để lại, đặc biệt là coi trọng việc thu hút lực lượng trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Với tinh thần “kiến thiết thì phải có nhân tài”, năm 1946, khi sang Pháp dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô với tư cách thượng khách của Chính phủ Pháp, Người đã gặp gỡ, tiếp xúc, dùng đại nghĩa dân tộc và uy tín cá nhân để kêu gọi nhiều trí thức Việt Nam ở Pháp trở về nước phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, trong đó có kỹ sư Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh và bác sĩ Trần Hữu Tước. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thêm nhiều trí thức Việt Nam ở nước ngoài cũng lần lượt về nước tham gia kháng chiến, như Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Lê Văn Thiêm, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ… Những trí thức đó được chính quyền cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trọng dụng đã thể hiện được tài năng, góp phần làm nên những thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đây là bài học lớn cần được tiếp tục được quán triệt trong bối cảnh hiện nay.
Một điều đặc biệt thể hiện tầm nhìn vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là ngay từ giữa thập niên 40 của thế kỷ XX, Người đã đặt vấn đề mời các chuyên gia khoa học, giáo dục nước ngoài sang Việt Nam làm việc và mở các cơ quan khoa học nước ngoài ở Việt Nam. Theo tinh thần đó, Tạm ước Việt – Pháp (ngày 14-9-1946) ghi rõ: “Những trường học Pháp các cấp sẽ được tự do mở trên đất Việt Nam. Những trường ấy sẽ theo chương trình học chính thức của Pháp… Những trường ấy sẽ mở rộng cho cả học sinh Việt Nam. Những kiều dân Pháp sẽ được tự do nghiên cứu khoa học và mở những viện khoa học trên đất Việt Nam”, mặt khác, “những kiều dân Việt Nam cũng được hưởng đặc quyền ấy ở Pháp”(12). Đây thực sự là biện pháp có ý nghĩa, góp phần phát triển nhân lực khoa học, công nghệ của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay.
Thứ ba, xây dựng các thể chế, thiết chế khoa học, giáo dục.
Cùng với quan điểm về phát triển nhân lực khoa học, kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng các thể chế, thiết chế khoa học, giáo dục, bởi đây là biện pháp quan trọng để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 44/SL, thành lập Hội đồng cố vấn học chính, gồm hơn 30 thành viên là những nhà quản lý giáo dục, giáo giới, trong các đoàn thể chính trị, đại diện phụ huynh học sinh, để (i) nghiên cứu một chương trình cải cách các nền học của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; (ii) theo dõi sự thực hành bản chương trình ấy khi đã được Hội đồng Chính phủ duyệt y, đề nghị những điều sửa đổi cho phù hợp với tình hình trong nước. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc gia Giáo dục đã tổ chức khai giảng các trường phổ thông trong cả nước vào tháng 9-1945. Về giáo dục đại học, Hội đồng Chính phủ dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định việc tiếp thu cơ sở của Đại học Đông Dương, kế thừa và cải tổ các trường đại học và cao đẳng đã có, thành lập thêm một số trường mới, dùng tiếng Việt để giảng dạy ngay từ niên khóa 1945 – 1946. Đáng chú ý là cũng vào ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 43/SL nhằm thiết lập cho trường Đại học Việt Nam một quỹ tự trị, trong đó thâu gồm các tiền trợ cấp của Chính phủ hay của các địa phương, và có pháp nhân tư cách để thân nhận những động sản hoặc bất động sản của tư nhân quyên cho. Việc quản trị quỹ do một Hội đồng quản trị gồm có ông Giám đốc Đại học vụ làm Chủ tịch, ông Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc gia giáo dục – ông Phó Giám đốc Đại học vụ, các ông giám đốc các trường đại học và mỗi trường một đại biểu, giáo sư cùng đại biểu của sinh viên, và 3 vị thân hào trong nước. Chủ trương thành lập Quỹ tự trị và cách thức quản trị Quỹ như trên cho thấy tư duy vượt trước thời đại của Người. Hiện nay, việc thành lập các quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm,… ở Việt Nam nhằm huy động nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo mới từng bước hình thành, đạt được những kết quả bước đầu còn khiêm tốn, càng cho thấy, những quan điểm đúng đắn và vượt thời gian của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng các thể chế, thiết chế khoa học, giáo dục hàm chứa nhiều giá trị, tiếp tục cần được đi sâu nghiên cứu và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Các nhà khoa học hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học tại Khoa Công nghệ dược, Trường Đại học Dược Hà Nội_Ảnh: TTXVN
Thứ tư, tăng cường trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
Để các hoạt động đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát huy tối đa vai trò trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, vai trò quản lý của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “trong công cuộc xây dựng nước nhà, việc quản lý… là cực kỳ quan trọng. Nếu quản lý không chặt chẽ, thì cái gì thiếu không biết, cái gì thừa không hay, công việc sẽ bị bế tắc”(13).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trách nhiệm của Nhà nước thể hiện ở việc hoạch định chiến lược phát triển đất nước, ở việc lập và tổ chức triển khai những kế hoạch cụ thể nhằm từng bước phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ làm cho nước giàu, dân mạnh và cải thiện mọi mặt đời sống của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Kế hoạch không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm của ta. Nền tảng phát triển công nghệ phải dựa trên sự cần thiết cho thị trường trong nước, trước hết là thị trường của nông dân, và dựa trên phạm vi của cải của ta. Đó là nền tảng để liên hệ công nghệ với kinh tế của nông dân”; rằng kế hoạch cần bám sát điều kiện thực tế của đất nước, với các nguồn lực có thể huy động, với thế mạnh của một nước có tiềm năng phát triển nông nghiệp. “Có người theo ảo tưởng của mình mà định kế hoạch, chứ không nghĩ đến vốn liếng. Họ quên rằng: Nếu không có một số vốn tối thiểu, không có một số tiền hậu bị tối thiểu, thì chẳng những không đạt được kế hoạch công nghệ nào, mà cũng không xây dựng được những xí nghiệp “to lớn bao la””(14). Tóm lại, xuất phát từ đặc điểm của đất nước ta là “một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, nên kế hoạch phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ phải “liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không xa rời sức tiết kiệm và ǎn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta – thì công nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó là lãnh đạo và cải tạo kinh tế quốc dân”(15). Điều cần nhấn mạnh ở đây là, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan trọng không chỉ nằm ở kế hoạch, mà còn thuộc khâu tổ chức thực hiện: Kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao phải 30 phần. Có như thế mới chắc chắn hoàn thành tốt kế hoạch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vấn đề cán bộ. Theo Người, cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực khoa học, kỹ thuật phải bám sát thực tế điều hành, phải hiểu rõ tình hình thực tiễn, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, nắm bắt được nhu cầu của quần chúng, trong đó có nhu cầu đối với khoa học, kỹ thuật. Người căn dặn: “Các đồng chí phải đi xuống tận các xí nghiệp, các hợp tác xã, hỏi han công nhân, nông dân yêu cầu gì, họ làm ăn và sinh sống như thế nào và phổ biến những điều cần thiết giúp đỡ họ cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống”(16). Khoa học, kỹ thuật biến đổi rất nhanh chóng, muốn làm tốt công tác quản lý khoa học, kỹ thuật, phải đấu tranh không khoan nhượng với thái độ bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, đố kỵ nhân tài, kìm hãm người giỏi, “đạo vị” của những người có năng lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ quản lý lĩnh vực khoa học, kỹ thuật phải yêu mến nhân tài, bảo vệ nhân tài, trọng dụng nhân tài, có gan tiến cử nhân tài. Người nhấn mạnh, đối với cán bộ quản lý khoa học và kỹ thuật vấn đề không chỉ là phương pháp, mà quan trọng hơn còn là đạo đức và thái độ ứng xử. Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn ra vai trò của quản trị quốc gia đối với phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, đổi mới, sáng tạo và quan điểm đó có nhiều giá trị gợi mở trong bối cảnh đất nước hiện nay.
Thứ năm, mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế là để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp các nước trên thế giới và sâu xa hơn, đó là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn liền với những chuyển biến mang tính thời đại. Người cho rằng, giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật có quan hệ và ảnh hưởng qua lại, là điều kiện quan trọng để bảo đảm thắng lợi của công cuộc kiến thiết đất nước. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài câu kết với nhau chống phá cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn “trước sau như một”, tỏ rõ thiện chí Việt Nam sẵn sàng quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật. Người đưa ra lời đề nghị các nước bạn hợp tác giúp đỡ, trong đó có giúp đỡ về khoa học, kỹ thuật công nghệ và ta phải khéo tranh thủ sự giúp đỡ ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả nǎng của ta. Trong Lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Người nêu rõ: Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối không được ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà phải không ngừng tự lực cánh sinh. Người yêu cầu Chính phủ phải có những chính sách cụ thể, khả thi để thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học nước ngoài đến Việt Nam cộng tác, làm việc. Người nhấn mạnh, cần “mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”(17), nhằm khuyến khích các đối tác nước ngoài hợp tác trên những lĩnh vực mà Việt Nam còn yếu, chưa có điều kiện khai thác, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội của đất nước ta.  Trong hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý thêm, không bằng mọi giá, mà phải trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, các bên cùng có lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ là một hệ thống quan điểm mang nhiều giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với tầm nhìn vượt thời gian. Đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ là điều kiện mang tính then chốt để giải phóng dân tộc, đưa nhân dân ta nhanh chóng “vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu”. Đó là con đường đúng đắn đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền công – nông nghiệp hiện đại. Tư tưởng đó càng có ý nghĩa thời sự trong bối cảnh Việt Nam đang tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc./.
——————————-
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 14, tr. 97
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 356
(3) Xem: Nhớ lời Bác Hồ dặn học sinh khóa đầu sang Liên Xô học tập, Báo Nhân dân điện tử, ngày 18-5-2005,  https://nhandan.vn/nho-loi-bac-ho-dan-hoc-sinh-khoa-dau-sang-lien-xo-hoc-tap-post398464.html
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 310
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 530
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 437
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 97
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 97
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 99
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 506
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 400
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 588, 589
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 140
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 366
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 366
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 97
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 86
Nguồn: Tạp chí Cộng sản

Nữ trí thức Việt Nam ghi dấu ấn tại KIWIE 2024 với 13 giải thưởng danh giá

Tại Triển lãm Quốc tế về Sáng chế của Phụ nữ lần thứ 17 (KIWIE 2024), đoàn Việt Nam giới thiệu 12 sáng chế và xuất sắc giành được 13 giải thưởng. Đây là minh chứng cho những tiềm năng của nữ sáng chế Việt.

Theo thông tin từ Trung tâm Ứng dụng Khoa học Công nghệ và Khởi nghiệp (COSTAS) thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW), COSTAS đã lựa chọn và hỗ trợ 12 sáng chế của 08 nhà khoa học nữ và nhóm nghiên cứu tham dự KIWIE 2024.
KIWIE 2024 thu hút gần 20 quốc gia với hơn 400 sáng chế và công nghệ được giới thiệu, trưng bày.
Năm nay, với chủ đề “Xem, trải nghiệm và mua các sáng chế của phụ nữ ở cùng một địa điểm”, KIWIE 2024 và Hội nghị sáng chế của phụ nữ là cơ hội để các nhà khoa học nữ Việt Nam giới thiệu sáng chế của mình đến cộng đồng quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ các nhà sáng chế nữ khác và tìm kiếm tiềm năng hợp tác.
Các nữ sáng chế đoàn Việt Nam chụp ảnh lưu niệm với 13 giải thưởng của Ban Tổ chức KIWIE tại Văn phòng Đại diện KH&CN, Seoul, Hàn Quốc.
Song song với hoạt động Triển lãm còn có Tọa đàm về chính sách hỗ trợ phụ nữ thương mại hóa tài sản trí tuệ, do Cục Nhãn hiệu và Sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) Nhật Bản (JPO), Cục SHTT châu Âu (EPO), Cục SHTT Hàn Quốc (KIPO) và Tổ chức SHTT Thế giới (WIPO) tổ chức.
Ngoài ra, các nhà khoa học nữ và doanh nhân tham gia KIWIE 2024 còn tham dự Tập huấn của Học viện Lãnh đạo nữ Sáng chế Toàn cầu bao gồm những câu chuyện về quản trị tài sản trí tuệ và khởi nghiệp của các nữ sáng chế, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Đại diện nhóm nghiên cứu nhận Giải thưởng đặc biệt của Hội các nhà sáng chế và hợp lý hóa của Ba Lan và Huy chương Vàng KIWIE 2024.
Tại Triển lãm lần này, COSTAS tham gia 03 gian hàng, trưng bày 12 sáng chế, giải pháp hữu ích và các sản phẩm khoa học và công nghệ của 08 nhà khoa học nữ được hỗ trợ thông qua Nhiệm vụ “Nâng cao nhận thức, năng lực sử dụng công cụ SHTT, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh cho cộng đồng nữ trí thức Việt Nam” thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030”.
Đoàn Việt Nam tham dự Lễ Khai mạc KIWIE 2024.
Đây là lần thứ hai, các nhà khoa học nữ Việt Nam trực tiếp giới thiệu các sáng chế của mình tại KIWIE. Đoàn không chỉ đón nhiều nhà khoa học và doanh nghiệp của các nước đến thăm gian hàng, thể hiện mong muốn hợp tác nghiên cứu và thương mại các sản phẩm khoa học và công nghệ, mà các sáng chế, công nghệ và sản phẩm đăng ký dự thi còn được Ban tổ chức triển lãm đánh giá cao về tính sáng tạo và hàm lượng khoa học.
Kết quả, đoàn xuất sắc giành được 13 giải thưởng, trong đó có 1 giải nhì (Semi- Grand Prize), 1 giải đặc biệt, 4 huy chương Vàng, 5 huy chương Bạc, 2 huy chương Đồng. Đây thực sự là phần thưởng quý giá và nguồn khuyến khích động viên rất lớn đối với các nhà khoa học nữ Việt Nam sau nhiều năm nghiên cứu khoa học. Các giải thưởng này một lần nữa khẳng định sự ghi nhận của quốc tế về chất lượng và yếu tố sáng tạo của các nữ sáng chế Việt Nam.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt gặp mặt các nhà khoa học và trí thức Việt Nam tại Đức

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt khẳng định các nhà khoa học Việt Nam tại Đức là một bộ phận không tách rời của cộng đồng trí thức người Việt ở nước ngoài, đã và đang đóng góp vào sự phát triển KH,CN&ĐMST nước nhà.

Chiều 26/6/2024, tại trụ sở Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Berlin (Đức), Đại sứ quán, Văn phòng đại diện KH&CN Việt Nam tại Đức và Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam – Đức (VGInetwork) đã tổ chức cuộc gặp mặt giữa Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam Huỳnh Thành Đạt và các nhà khoa học, trí thức Việt Nam tại Đức, nhằm lắng nghe những đề xuất chính sách, giải đáp thắc mắc của các nhà khoa học, tiến tới đẩy mạnh hợp tác KH&CN giữa hai nước.

Tại buổi gặp mặt, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt khẳng định, trong những năm qua, người Việt Nam ở nước ngoài và các trí thức kiều bào đã luôn hướng về Tổ quốc, sát cánh cùng dân tộc và cộng đồng KH&CN trong nước, đóng góp to lớn và thiết thực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đội ngũ hơn 500.000 trí thức kiều bào ở nước ngoài với nhiều người giữ vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, tập đoàn kinh doanh có uy tín trên thế giới là nguồn nhân lực khoa học quý báu của nước nhà.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi gặp mặt.

Bộ trưởng khẳng định, Bộ KH&CN đánh giá cao nỗ lực khắc phục khó khăn sau đại dịch COVID-19 của các nhà khoa học Việt Nam tại Đức trong khôi phục và đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu và trao đổi học thuật. Các hoạt động này đã làm tăng độ gắn kết, chia sẻ và hỗ trợ nhau trong học tập, nghiên cứu và sáng tạo KH&CN trong cộng đồng.

Cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam tại Đức luôn là một tập thể mạnh và đoàn kết, là một bộ phận không tách rời của cộng đồng trí thức người Việt Nam tại nước ngoài, có những đóng góp to lớn vào sự phát triển KH&CN của nước nhà, đồng thời góp phần đẩy mạnh hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam và Đức.

Tại cuộc gặp mặt, GS.TSKH Nguyễn Xuân Thính, Trưởng nhóm nghiên cứu tại Đại học TU Dortmund, Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp hội người Việt Nam tại Đức, Chủ tịch VGInetwork nêu lên một số khó khăn và thủ tục hành chính liên quan đến các vấn đề tổ chức hội thảo khoa học quốc tế, chia sẻ dữ liệu… Một số nhà khoa học cũng đề xuất việc chia sẻ dữ liệu quốc gia trong lĩnh vực hợp tác nghiên cứu quốc tế nhằm giúp nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam.

Trả lời những câu hỏi của các nhà khoa học gốc Việt về cơ chế thu hút trí thức  người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt khẳng định, Bộ KH&CN luôn quan tâm và xây dựng những hành lang pháp lý thuận lợi để các nhà khoa học Việt Nam ở trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong nước. Bộ KH&CN trân trọng sự tham gia đóng góp tri thức và trí tuệ của các nhà khoa học cho hoạt động KH&CN ở quê hương, đối với các chương trình, đề án quốc gia KH&CN, các dự án hợp tác nghiên cứu chung với các viện nghiên cứu, trường đại học của Đức; tư vấn, hoạch định chính sách và đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trong nước, làm cầu nối khai thông và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức KH&CN của Đức.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Đại sứ Việt Nam tại CHLB Đức Vũ Quang Minh tại buổi gặp mặt.

Bộ KH&CN sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan trong quá trình xây dựng, triển khai các cơ chế, chính sách, thúc đẩy các hoạt động thu hút, khuyến khích các trí thức, chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài nói chung và ở Đức nói riêng đóng góp cho sự nghiệp KH,CN&ĐMST và phát triển bền vững đất nước.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và các đại biểu tại buổi gặp mặt.

VGI Network được ra mắt ngày 14/09/2019, đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 250 của nhà bác học vĩ đại, toàn năng và kiệt xuất Alexander von Humboldt. Mục đích của VGI Network là tham gia thúc đẩy nền KH&CN Việt Nam với những đóng góp của các chuyên gia Việt hay gốc Việt tại Đức. VGI Network là đầu mối để kết nối, trao đổi và hợp tác giữa các chuyên gia, nhà khoa học đang sống và làm việc tại Việt Nam và Đức.

Hiện có khoảng 8.000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường đại học và nhiều chuyên gia, nhà khoa học gốc Việt làm việc ở các trường đại học, viện nghiên cứu và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới như Volkswagen, SAP, Mercedes-Benz-Group, Siemens, BOSCH….

Trong hầu hết các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, khoa học hiện đại của Đức đều có chuyên gia người Việt Nam tham gia nghiên cứu và làm việc. Nguồn lực tri thức này là vốn quý cho đất nước Việt Nam vì họ được đào tạo bài bản, tốt cả về lý thuyết và thực hành và được làm việc trong môi trường phát triển, hiện đại, cạnh tranh mạnh và thông tin cập nhật.

 

Nguồn: Vụ Hợp tác quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Xây dựng Hải Phòng thành Trung tâm KH,CN&ĐMST của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

Hải phòng cần xây dựng các cơ chế, chính sách mang tính đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) để Thành phố thực sự trở thành trung tâm KH,CN&ĐMST của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thành một cực phát triển KH,CN&ĐMST mạnh mẽ của cả nước.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Hoàng Giang cho biết như trên tại Hội nghị gặp mặt truyền thống chào mừng 65 Ngày thành lập Sở KH&CN TP. Hải Phòng.
Tại buổi gặp mặt, Thứ trưởng ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực, đóng góp quý báu của đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành KH&CN các thời kỳ đối với sự phát triển của ngành nói riêng và kinh tế, xã hội thành phố nói chung. Đặc biệt, đã phát huy tốt vai trò phối hợp cùng các cơ quan hữu quan ứng dụng KH&CN vào đời sống và sản xuất, góp phần đưa kinh tế, xã hội thành phố phát triển mạnh mẽ.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang phát biểu tại Hội nghị.
Điển hình có thể kể đến là đã chủ động đề xuất, tham mưu cho thành phố nhiều cơ chế, chính sách, chương trình, dự án quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển KH&CN, nhất là các hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ và thiết bị; nâng cao năng suất chất lượng các sản phẩm chủ lực, trọng điểm của địa phương; phát triển thị trường KH&CN, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST; các nhiệm vụ về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số đã góp phần thúc đẩy thúc đẩy kinh tế, xã hội thành phố phát triển mạnh mẽ.
“Để đạt được những thành tựu đó, không thể không nhắc đến sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, sát sao, sự chia sẻ, ủng hộ cao của Lãnh đạo Thành ủy, HĐND, UBND cũng như các sở, ban, ngành của Thành phố, sự quan tâm, phối hợp và đồng hành của các doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn Thành phố”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, vai trò của KH&CN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để Sở KH&CN TP. Hải Phòng tiếp tục phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được, Thứ trưởng đề nghị Hải Phòng quan tâm chỉ đạo một số nội dung cụ thể: xây dựng chủ trương, định hướng về phát triển KH,CN&ĐMST với tầm nhìn chiến lược giai đoạn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trước mắt là tập trung tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động trong thời gian qua để xây dựng nội dung KH,CN&ĐMST trong Nghị quyết đại hội Đảng bộ Thành phố năm 2025; xây dựng các cơ chế, chính sách mang tính đột phá để khuyến khích và thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST, nhất là hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ công; tăng cường ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển; thu hút nguồn lực của xã hội cho phát triển KH&CN; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao với các kỹ năng sáng tạo, để Thành phố thực sự trở thành trung tâm về KH,CN&ĐMST của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thành một cực phát triển KH,CN&ĐMST mạnh mẽ của cả nước.
“Bộ KH&CN khẳng định sẽ đồng hành với Hải Phòng trong hoạt động KH,CN&DMST nhằm hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về phát triển Thành phố Hải Phòng”.
Sau 65 năm xây dựng và trưởng thành, từ Ban Khoa học kỹ thuật trước đây, Sở KH&CN TP. Hải Phòng hiện nay trưởng thành vượt bậc về chức năng nhiệm vụ, bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý; luôn làm tốt công tác tham mưu giúp Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động KH&CN của thành phố. Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, ngành KH&CN thành phố có nhiều đóng góp, đạt nhiều kết quả quan trọng.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang, Phó chủ tịch UBND thành phố Hoàng Minh Cường tại Hội nghị.
Toàn cảnh Hội nghị.
Những đóng góp nổi bật của ngành KH&CN góp phần đưa Hải Phòng đứng đầu cả nước về chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) năm 2021, đứng thứ 2 năm 2022 và 2023. Tăng trưởng GRDP năm 2023 của Hải Phòng đạt 10,34%, đứng thứ 5 cả nước và thứ 2 vùng Đồng bằng sông Hồng. Tổng thu ngân sách trên địa bàn thành phố đạt hơn 102.000 tỷ đồng. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt hơn 3,5 tỷ USD, tăng 68% so với năm 2022. Tỷ trọng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào GRDP đạt 43,26%, cao nhất các năm.
Năm 2024, Hải Phòng xếp thứ 3 cả nước về Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII). Nguồn nhân lực chất lượng cao thành phố không ngừng phát triển số lượng và chất lượng, với gần 5 nghìn cán bộ hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, tỷ lệ cán bộ KH&CN đạt 22,8 cán bộ/10.000 dân, cao gần gấp đôi chỉ tiêu chung cả nước. Những kết quả nổi bật khẳng định KH,CN&ĐMST tạo là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội thành phố.
Đặc biệt, việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng kinh tế từ thu hút đầu tư sử dụng tài nguyên, lao động giá rẻ sang thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp áp dụng KH&CN vào sản xuất là quan điểm đúng, phù hợp với sự phát triển thành phố. Toàn thành phố có hàng chục nhiệm vụ nghiên cứu giao cho các doanh nghiệp là cơ quan chủ trì thực hiện, tiêu biểu như: Công ty Cổ phần Sơn Hải Phòng, Công ty Cổ phần cơ khí và vật liệu xây dựng Thanh Phúc, Công ty Cổ phần nhựa Thiếu niên tiền phong, Công ty TNHH MTV Đóng tầu Phà Rừng, Công ty Cổ phần KH&CN HTChem, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Đa Độ, Công ty Cổ phần KHCN Phú Lâm, Công ty TNHH Công nghệ ứng dụng Quốc tế, Công ty TNHH Phát triển thủy sản Hoàng Hương và nhiều doanh nghiệp khác.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Hệ thống sưởi hơi nước 5 triệu tấn chạy bằng điện hạt nhân

Trung Quốc khởi động hệ thống sưởi hơi nước Heqi No 1, giúp giảm tiêu thụ 400.000 tấn than nhờ chuyển từ điện than sang điện hạt nhân.

Một bức ảnh chụp từ máy bay không người lái được chụp vào ngày 19 tháng 6 năm 2024 cho thấy quang cảnh Nhà máy điện hạt nhân Tianwan ở thành phố Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô phía đông Trung Quốc. Ảnh: Xinhua/Li Bo

Nhà máy điện hạt nhân Tianwan ở thành phố Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô, nhìn từ trên cao. Ảnh: Xinhua/Li Bo

Để dịch chuyển khỏi nhiên liệu hóa thạch, Trung Quốc đang giải quyết nhu cầu công nghiệp bằng điện hạt nhân thay vì điện từ than đá. Tập đoàn Hạt nhân Quốc gia Trung Quốc (CNNC) xác nhận, nhà máy điện hạt nhân Tianwan ở tỉnh Giang Tô đã bắt đầu cung cấp hơi nước cho Cơ sở Công nghiệp Hóa dầu Liên Vân Cảng, Interesting Engineering hôm 21/6 đưa tin.

Với mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2060, Trung Quốc đang sử dụng nhiều giải pháp và đa dạng hóa các nguồn năng lượng sạch. Nước này đã xây dựng một số nhà máy điện mặt trời lớn hàng đầu thế giới, đồng thời đầu tư mạnh vào xây nhà máy điện hạt nhân. Các nhà máy điện hạt nhân hướng đến việc đáp ứng nhu cầu công nghiệp về nhiệt và điện, thay thế nhiệt điện than vốn giúp Trung Quốc phát triển suốt nhiều thập kỷ.

Năm 2022, Trung Quốc triển khai dự án cung cấp hơi nước bằng điện hạt nhân với chi phí 108 triệu USD. Đến nay, việc xây dựng dự án đã hoàn tất và nhà máy bắt đầu hoạt động vào tuần này.

Dự án hơi nước điện hạt nhân mang tên Heqi No 1 do CNNC xây dựng. Dự án sử dụng điện hạt nhân để biến nước thành hơi trong máy áp suất cao (cỗ máy đun sôi nước từ một nhà máy khử mặn). Hơi nước sau đó được đưa đi khoảng 23 km, qua đường ống trên mặt đất đến Cơ sở Công nghiệp Hóa dầu Liên Vân Cảng. Tại đây, sau khi đi qua nhiều hệ thống trao đổi nhiệt, hơi nước sẽ được sử dụng cho nhu cầu sưởi ấm.

Để tăng tính an toàn, dự án sẽ liên tục theo dõi mức độ phóng xạ của hơi nước và ngừng hoạt động ngay lập tức khi phát hiện bất thường, CNNC cho biết. Khi hoạt động hết công suất, dự án có thể cung cấp gần 5 triệu tấn hơi nước hàng năm cho cơ sở công nghiệp.

Nhờ chuyển từ than sang điện hạt nhân, Heqi No 1 ước tính giúp giảm tiêu thụ 400.000 tấn than. Điều này có thể giúp giảm hơn một triệu tấn CO2, 184 tấn SO2 và 263 tấn khí thải nitơ oxit. Với ngành hóa dầu, việc Heqi No 1 đi vào hoạt động cũng cho phép tiết kiệm hơn 700.000 tấn khí thải theo hạn ngạch carbon, vốn đòi hỏi phải trồng cây trên diện tích 2.900 ha.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Nhà khoa học tìm giải pháp kiểm soát bệnh truyền nhiễm

Các chuyên gia hàng đầu từ 17 quốc gia chia sẻ và thảo luận các nghiên cứu góp phần kiểm soát các đợt bùng phát dịch bệnh và mô hình bệnh truyền nhiễm.

Sự kiện khai mạc sáng 24/6 tại Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành (ICISE) Quy Nhơn, Bình Định do Hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam, Trung tâm ICISE và mạng lưới MIDSEA tổ chức. Hội nghị quy tụ nhiều chuyên gia hàng đầu về mô hình bệnh truyền nhiễm trong khu vực Đông Nam Á như GS Alexander Richard Cook (Trường Y tế công cộng Saw Swee Hock, Đại học quốc gia Singapore); GS Jomar Rabajante (Đại học Philippines Los Baños, Philipines); GS May Anne Mata (Đại học Philippines Mindanao), PGS Wirichada Pan-ngum (MORU, Thái Lan).

Phát biểu khai mạc, GS Trần Thanh Vân, Chủ tịch Hội Gặp gỡ Việt Nam cho biết Trung tâm ICISE mong muốn phối hợp với các tổ chức quốc tế nhằm đóng góp cho sự phát triển khoa học khu vực Đông Nam Á ngày càng lớn mạnh.

Ông cho hay, Trường hè, hội thảo và hội nghị chuyên đề MIDSEA được tổ chức với mong muốn truyền cảm hứng cho các nghiên cứu sinh Việt Nam và thế giới khi nghiên cứu mô hình các bệnh truyền nhiễm. Thông qua chương trình, kiến thức về mô hình các bệnh truyền nhiễm theo nhiều chủ đề được cập nhật, là cơ hội kết nối các nhà khoa học. “Học viên có thêm kiến thức và niềm yêu thích để mạnh dạn theo đuổi đề tài nghiên cứu”, ông cho hay.

GS Trần Thanh Vân phát biểu tại buổi khai mạc Trường hè, Hội thảo và Hội nghị chuyên đề MIDSEA. Ảnh: Trọng Nhân

GS Trần Thanh Vân phát biểu tại buổi khai mạc sự kiện sáng 24/6. Ảnh: Trọng Nhân

Tại hội nghị chuyên đề MIDSEA, các nhà khoa học và nghiên cứu sinh trao đổi ý tưởng về mô hình bệnh truyền nhiễm, đặc biệt các nghiên cứu góp phần kiểm soát các đợt bùng phát dịch bệnh ở Đông Nam Á và khu vực. Trong đó các mô hình bệnh truyền nhiễm như mô hình tác động vaccine HPV, Strep A và chikungunya; tìm hiểu di chứng lâu dài của bệnh truyền nhiễm; khám phá mô hình dịch tễ học sinh thái về sự lây lan của Hantavirus và mô hình dịch tễ học về sự lây truyền Covid-19.

GS Alexander Richard Cook, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y tế công cộng Saw Swee Hock, Đại học Quốc gia Singapore (NUS) kỳ vọng thông qua hội nghị các nghiên cứu sinh trẻ Đông Nam Á và khu vực có cơ hội được tiếp cận, học hỏi. GS Alex Cook là một trong những người hướng dẫn chính tại Trường hè. Ông chia sẻ các nghiên cứu chính về mô hình và thống kê các bệnh truyền nhiễm, gồm sốt xuất huyết, cúm và các tác nhân gây bệnh về hô hấp.

GS Alexander Richard Cook. Ảnh: Trọng Nhân

GS Alexander Richard Cook. Ảnh: Trọng Nhân

Sự kiện kéo dài 10 ngày, từ ngày 19-29/6 nằm trong chuỗi “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ 20 tại ICISE. Thành lập năm 2013, ICISE là tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại thành phố Quy Nhơn, với sứ mệnh thúc đẩy hợp tác khoa học và giáo dục quốc tế. Đây là điểm gặp gỡ, giao lưu học thuật theo chuẩn quốc tế, góp phần kết nối các nhà khoa học Việt Nam và thế giới. Mỗi năm, ICISE tổ chức hàng chục sự kiện khoa học, quy tụ hàng nghìn nhà khoa học hàng đầu thế giới trên nhiều lĩnh vực tham gia.

Như Quỳnh

Nhà khoa học Việt phát triển công nghệ sàng lọc trẻ mắc chứng khó đọc

Nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đang phát triển công nghệ theo dõi chuyển động mắt đầu tiên tại Việt Nam có khả năng hỗ trợ sàng lọc, chẩn đoán và can thiệp cho trẻ em mắc chứng khó đọc (Dyslexia).

TS Ngô Thị Duyên, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết hội chứng khó đọc do rối loạn thần kinh bẩm sinh ảnh hưởng tới 5 -10% trẻ em trong độ tuổi đi học. Ước tính tại Việt Nam có hàng chục ngàn học sinh đang mắc hội chứng này nhưng chưa được phát hiện.

Khi mắc chứng khó đọc, trẻ thường gặp khó khăn trong việc kết nối ngôn ngữ nói và chữ viết. Điều này ảnh hưởng đến cuộc sống và quá trình học tập của trẻ, làm cho trẻ khó có thể bắt kịp những trẻ phát triển bình thường khác.

Theo dõi chuyển động mắt là công nghệ đầu tiên có khả năng sàng lọc số lượng lớn, hỗ trợ các chuyên gia đưa ra chẩn đoán xác nhận, phân loại các chứng khó đọc mà trẻ mắc phải. Công nghệ cũng có thể gợi ý cho giáo viên và phụ huynh học sinh các biện pháp can thiệp sớm, hiệu quả cho nhóm trẻ đang mắc chứng này.

TS Duyên cho biết trên thế giới đã có những nghiên cứu sử dụng công nghệ theo dõi chuyển động mắt để phát hiện chứng khó đọc. Tuy nhiên, do đặc trưng của từng ngôn ngữ khác nhau, các công nghệ này không thể áp dụng được cho trẻ mắc chứng khó đọc tại Việt Nam.

Chị cùng cộng sự đã phát triển một hệ thống có tiềm năng hỗ trợ sàng lọc, phát hiện, và hỗ trợ can thiệp dành riêng cho trẻ em Việt Nam mắc chứng khó đọc. Hệ thống gồm phần mềm và phần cứng đơn giản gồm một thiết bị theo dõi chuyển động mắt có sẵn trên thị trường, kết nối với laptop qua cổng USB.

Khi trẻ thực hiện các bài kiểm tra với ngữ liệu đầu vào tiếng Việt trên máy tính, thời lượng từ 10-15 phút, hệ thống sẽ theo dõi ánh nhìn của trẻ và ghi lại toàn bộ tọa độ điểm nhìn của mắt trẻ trên màn hình. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng các thuật toán dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI) để xử lý dữ liệu này.

Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi TS Ngô Thị Duyên (giữa) tại Phòng thí nghiệm Tương tác người – máy, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC

TS Ngô Thị Duyên (giữa) cùng nhóm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Tương tác người – máy, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC

Đây là bộ thuật toán đầu tiên có khả năng liên kết các đặc trưng chuyển động mắt của trẻ (bao gồm điểm dừng của mắt, chuyển động mắt từ một điểm dừng này sang điểm dừng khác, chuyển động mắt ngược chiều văn bản…) với ngữ liệu đầu vào của bài kiểm tra (bao gồm âm đầu, vần, màu sắc… của văn bản Tiếng Việt), từ đó giúp phát hiện trẻ mắc chứng khó đọc.

Ngoài ra, chuyển động mắt của trẻ có thể được lưu trữ thành hồ sơ, để đánh giá các đặc trưng cá nhân hóa trong hành vi đọc của từng trẻ. Đây là hướng tiếp cận hoàn toàn mới, có độ chính xác cao trong hỗ trợ chẩn đoán và can thiệp chứng khó đọc tại Việt Nam. “Nếu chỉ sử dụng các bài kiểm tra truyền thống trên giấy, bằng mắt thường, ngay cả các chuyên gia giáo dục đặc biệt có kinh nghiệm cũng không thể làm được những điều này”, TS Duyên nói.

Bản đồ đường quét mắt thu được từ hệ thống theo dõi chuyển động mắt của người bình thường khi thực hiện bài kiểm tra Hiệu ứng Stroop, một trong những bài kiểm tra được dùng để chẩn đoán chứng khó đọc ở trẻ. Ảnh: Nhóm nghiên cứu.

Bản đồ đường quét mắt thu được từ hệ thống theo dõi chuyển động mắt của người bình thường khi thực hiện bài kiểm tra Hiệu ứng Stroop, một trong những bài kiểm tra được dùng để chẩn đoán chứng khó đọc ở trẻ. Ảnh: Nhóm nghiên cứu.

TS Nguyễn Thị Cẩm Hường, Trưởng Bộ môn Giáo dục trẻ khiếm thị và trẻ khuyết tật học tập, Khoa Giáo dục đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – người có hơn 10 năm nghiên cứu chứng khó đọc ở trẻ – đánh giá “Công nghệ do nhóm TS Duyên phát triển rất có ý nghĩa trong bối cảnh nhu cầu sàng lọc, chẩn đoán và can thiệp sớm cho trẻ mắc chứng Dyslexia tại Việt Nam hiện rất lớn”.

Theo nghiên cứu trước đây của TS Hường, trung bình mỗi lớp học ở Việt Nam đều có ít nhất một trẻ mắc hội chứng khó đọc. Trẻ mắc chứng khó đọc thường cảm thấy tự ti, phát triển các rối loạn hành vi thách thức chống đối theo thời gian, ví dụ như không học, sợ học hoặc thậm chí nhiều trẻ đã bỏ học. Ở tỷ lệ này, nhóm trẻ mắc Dyslexia đang đặt gánh nặng lớn lên từng giáo viên giảng dạy, trên toàn hệ thống giáo dục nếu không được quan tâm đầy đủ và đúng cách. Theo đó chỉ cần giúp trẻ mắc hội chứng Dyslexia đọc được, các em sẽ phát triển bình thường, nhiều trẻ còn phát triển với tài năng vượt trội.

TS Hường đã trực tiếp tham gia vào quá trình thử nghiệm công nghệ mới do nhóm TS Duyên phát triển trên 35 học sinh, trong đó có 5 học sinh mắc hội chứng khó đọc tại hai trường tiểu học ở Hà Nội và Hòa Bình. Cô nhận định công nghệ theo dõi chuyển động mắt hiện đã chứng minh được khả năng hỗ trợ giáo viên và các chuyên gia giáo dục đặc biệt trong tất cả các bước từ sàng lọc, chẩn đoán tới can thiệp cho trẻ mắc chứng khó đọc.

“Các bài kiểm tra chuyển động mắt có thể được tích hợp ngay vào phòng y tế học đường, hoặc các đợt khám sức khỏe đầu năm cho học sinh tiểu học, nhằm giúp phát hiện ra nhóm trẻ có nguy cơ cao mắc chứng khó đọc”, TS Hường nói.

Theo chị, đặc trưng chuyển động mắt là một lớp thông tin chuyên sâu, liên kết trực tiếp với cách trẻ xử lý thông tin và chức năng não bộ. Vì vậy, các thông tin về đặc trưng chuyển động mắt sẽ giúp chuyên gia đưa ra chẩn đoán chính xác, đồng thời phân loại được trẻ đang mắc phải chứng khó đọc dạng nào.
Sau khi có được chẩn đoán, các dữ liệu này một lần nữa sẽ giúp các chuyên gia đưa ra định hướng can thiệp cá nhân hóa cho từng trẻ.

Nhóm nghiên cứu và TS Nguyễn Thị Cẩm Hường đang thử nghiệm công nghệ theo dõi chuyển động mắt trên một trẻ mắc chứng khó đọc. Ảnh: NVCC

Nhóm nghiên cứu và TS Nguyễn Thị Cẩm Hường đang thử nghiệm công nghệ theo dõi chuyển động mắt trên một trẻ mắc chứng khó đọc. Ảnh: NVCC

Can thiệp cá nhân hóa bằng công nghệ cũng là mục tiêu mà nhóm nghiên cứu của TS Duyên đang hướng đến. Theo đó, dữ liệu đầu ra của hệ thống theo dõi chuyển động mắt có thể được sử dụng làm dữ liệu đầu vào cho một ứng dụng có khả năng giúp trẻ mắc chứng khó đọc hiểu được văn bản theo cách riêng của mình.

“Hội chứng Dyslexia có các thể khác nhau. Mỗi thể lại cần có các phương pháp can thiệp khác nhau”, TS Duyên nói. “Ở thể nhẹ nhất, trẻ chỉ gặp các vấn đề về xử lý thị giác. Sử dụng một ứng dụng có khả năng tùy biến trong hiển thị văn bản, ví dụ như làm cho phông chữ lớn hơn, tăng khoảng cách giữa các dòng chữ là đã giúp cải thiện khả năng đọc được của trẻ”.

Đối với các thể rối loạn đọc nặng hơn, khi trẻ không thể đọc được chữ, đặc biệt là gặp khó khăn với một số vần khó, từ khó hoặc con số cụ thể trong Tiếng Việt, ứng dụng có thể đưa ra phương án thay thế các từ hoặc con số này bằng hình ảnh hoặc âm thanh để trẻ có thể hiểu được.

TS Duyên cũng mong muốn lan tỏa thông tin đến các bậc phụ huynh học sinh, bởi “nhiều bậc cha mẹ không biết con mình đang gặp vấn đề và ngay cả khi phát hiện ra vấn đề, họ cũng không biết đó là Dyslexia”.

Nhóm nghiên cứu đang hướng tới xây dựng ứng dụng cho thiết bị di động mà giáo viên và phụ huynh học sinh có thể tải về điện thoại, máy tính bảng hoặc laptop của mình.

Ứng dụng cho phép thực hiện những can thiệp thường xuyên, cá nhân hóa cho từng trẻ mắc chứng khó đọc ngay tại nhà và tại trường học, mà không cần trực tiếp đến các trung tâm giáo dục đặc biệt.

TS Duyên ước tính sẽ mất khoảng 1-2 năm nữa để nhóm hoàn thiện công nghệ. Công việc đòi hỏi thu thập thêm một số lượng lớn dữ liệu chuyển động mắt của trẻ, đào tạo các thuật toán trí tuệ nhân tạo song song với tinh gọn các thiết bị phần cứng.

Thanh Long

Quy hoạch Tây Nguyên trở thành vùng phát triển nhanh, bền vững dựa trên nền tảng KH,CN&ĐMST

Ngày 23/6/2024, Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên đã tổ chức hội nghị lần thứ 3 tại TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; lãnh đạo các tỉnh vùng Tây Nguyên, các chuyên gia, nhà khoa học… Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang tham dự.
Toàn cảnh Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên.
Tại Hội nghị, lãnh đạo 5 tỉnh Tây Nguyên đã báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 152/NQ-CP ngày 15/11/2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang tham dự Hội nghị.
Hội nghị cũng thông qua các nhiệm vụ trọng tâm triển khai trong năm 2024 gồm: các bộ, ngành, địa phương phối hợp rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành và đề xuất các cơ chế chính sách đặc thù của vùng Tây Nguyên để kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội; tập trung tổ chức thực hiện quy hoạch vùng Tây Nguyên và các quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ…
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đánh giá, thời gian qua vùng Tây Nguyên đã đạt được một số kết quả tích cực, đáng khích lệ về KT-XH. Thông qua Hội nghị lần này, Hội đồng sẽ nắm bắt những vấn đề vướng mắc mà các địa phương đang gặp phải, từ đó báo cáo Chính phủ, đề xuất hướng xử lý cho Vùng.
Phó Thủ tướng cũng lưu ý thêm, để việc quy hoạch phát triển Tây Nguyên với tầm nhìn dài hạn, bền vững, các địa phương trong vùng nên học hỏi theo tinh thần “Hợp tác trong phát triển, phát triển trong hợp tác”. Cụ thể như kết nối giao thông giữa các tỉnh, phát triển du lịch theo chuỗi và chia sẻ thu hút đầu tư dự án quy mô lớn giữa các địa phương để thúc đẩy phát triển cả khu vực.
Dịp này, Ban Tổ chức cũng công bố Quyết định số 377/QĐ-TTg ngày 05/05/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu của Quy hoạch hướng đến năm 2030, Tây Nguyên trở thành vùng phát triển nhanh bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), chuyển đổi số hình thành một số sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn có thương hiệu quốc tế gắn với các trung tâm chế biến, trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang và các đại biểu chúc mừng thành viên Hội đồng điều phối Vùng Tây Nguyên cùng đón nhận Quyết định Quy hoạch vùng Tây Nguyên.
Sáng cùng ngày, Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang đã dự Lễ công bố Quy hoạch tỉnh Lâm Đồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu tư vào tỉnh.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang tại Lễ công bố Quy hoạch tỉnh Lâm Đồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
KH,CN&ĐMST đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên
Với vai trò là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ, ngành Trung ương tham mưu cho Chính phủ xây dựng nhiều Chương trình quốc gia về KH&CN gắn với cơ chế, chính sách phục vụ phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, trong đó có vùng Tây Nguyên. Điển hình như: Chương trình phát triển tài sản trí tuệ; Chương trình quốc gia Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp; Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia trong phát triển Sâm Ngọc Linh, cà phê, Chương trình KH&CN phục vụ phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên; Chương trình Nông thôn miền núi…
Đồng thời, Bộ KH&CN đã phối hợp với các địa phương trong vùng triển khai hiệu quả các Chương trình phối hợp hoạt động KH&CN, một số nhiệm vụ có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp bước đầu tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phục vụ phát triển KT-XH của địa phương. Hỗ trợ các địa phương trong vùng triển khai các nhiệm KH&CN nhằm quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ứng phó biến đổi khí hậu; các nhiệm vụ cấp thiết có tác động đến phát triển KT-XH, quốc phòng, an ninh của địa phương; nhất là các nhiệm vụ liên tỉnh, liên vùng phục vụ phát triển các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của địa phương…
Trong thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương trong vùng Tây Nguyên và các bộ, ban, ngành có liên quan triển khai một số nội dung nhằm hỗ trợ thúc đẩy phát triển hoạt động KH,CN&ĐMST của Vùng nói riêng và cả nước nói chung, góp phần phát triển KT-XH đất nước. Đặc biệt là nghiên cứu đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong triển khai hoạt động KH,CN&ĐMST, nhất là liên kết các ngành, doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu, trường đại học trong nội vùng với nhau và với các vùng khác.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Tàu vũ trụ Starliner của Boeing bị lỗi, không được chở phi hành gia về Trái đất

Trong quá trình kiểm tra tàu Starliner, phi hành đoàn đã phát hiện 5 lỗi kỹ thuật ở 28 động cơ đẩy, 5 điểm rò rỉ helium có thể tăng áp suất với những động cơ này và một số vấn đề chưa được khắc phục ở hệ thống van dẫn.

Hai phi hành gia người Mỹ của NASA gồm Butch Wilmore (trái) và Suni Williams được tàu Starliner đưa lên Trạm ISS hôm 5-6-2024, sau nhiều lần trì hoãn - Ảnh: REUTERS

Hai phi hành gia người Mỹ của NASA gồm Butch Wilmore (trái) và Suni Williams được tàu Starliner đưa lên Trạm ISS hôm 5-6-2024, sau nhiều lần trì hoãn – Ảnh: REUTERS

Trong thông báo ngày 21-6 (giờ Mỹ), Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết kế hoạch đưa tàu Starliner của Boeing chở theo các phi hành gia từ Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) về Trái đất tiếp tục bị hoãn.

NASA không đưa ra thời hạn dự kiến mới cho kế hoạch này.

Trong quá trình kiểm tra tàu, phi hành đoàn đã phát hiện 5 lỗi kỹ thuật ở 28 động cơ đẩy, 5 điểm rò rỉ helium có thể tăng áp suất với những động cơ này và một số vấn đề chưa được khắc phục ở hệ thống van dẫn.

Những trục trặc này làm gia tăng các vấn đề trong chương trình Starliner của Boeing, vốn trong nhiều năm đã gặp lỗi phần mềm, lỗi thiết kế hoặc tranh cãi giữa các nhà thầu phụ.

Đây là lần hoãn thứ 4 kể từ khi tàu Starliner đưa hai phi hành gia người Mỹ của NASA là Butch Wilmore và Suni Williams lên ISS hôm 5-6, sau nhiều lần hoãn, hủy.

Chuyến bay cũng là lần đầu tiên Starliner đưa theo các phi hành gia lên vũ trụ, sau 2 lần bay không người lái từ năm 2019.

Hành trình đầu tiên của phi hành đoàn CST-200 Starliner tới ISS là dấu mốc quan trọng đối với Tập đoàn Boeing, bởi đây được xem là bài kiểm tra then chốt trước khi NASA cấp chứng nhận cho phép Starliner thực hiện các chuyến bay thường lệ.

Đợt phóng tàu vũ trụ này diễn ra vào thời điểm Boeing đang nỗ lực giành thị phần lớn hơn trong hoạt động kinh doanh giàu lợi nhuận của NASA.