Vai trò của khoa học và công nghệ hiện đại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 

 

 

Xác định rõ tầm quan trọng của KH-CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH-CN đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

 

1. Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XX với nội dung chủ yếu là cơ khí hoá, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH-CN) hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX và nhanh chóng làm nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội toàn cầu. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 lĩnh vực chủ yếu, đó là: Tự động hoá, sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt; sử dụng năng lượng, ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thuỷ điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là chủ yếu và các dạng năng lượng “sạch” như năng lượng mặt trời, v.v…; công nghệ vật liệu mới, xuất hiện với nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Ví dụ: vật liệu tổ hợp (composit); gốm zincôn hoặc cácbuasilích chịu nhiệt cao…; công nghệ sinh học, được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường… như công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào; điện tử và tin học, đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo bốn hướng: nhanh (máy siêu tính); nhỏ (vi tính); máy tính có xử lý kiến thức (trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa (viễn tin học).

Từ nội dung trên, ta thấy cách mạng KH-CN hiện đại có hai đặc điểm chủ yếu sau:

Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự nhiên – kỹ thuật lẫn khoa học xã hội, nhất là khoa học kinh tế) do con người tạo ra và thông qua con người đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học, kỹ thuật, công nghệ tương ứng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH).

Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược KH-CN với chiến lược CNH-HĐH nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nói chung.
Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng KH-CN ở nước ta hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu; 1) Xây dựng thành công cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân; 2) Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của KH-CN hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

Trong quá trình thực hiện cách mạng KH-CN, điểm nổi bật được chú trọng là ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ CNH-HĐH và từng bước phát triển kinh tế tri thức; sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho KH-CNå; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả; kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội.

Xác định rõ tầm quan trọng của KH-CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH-CN đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta khẳng định: “KH-CN giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các chiến lược KH-CN nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực KH-CN của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí”(1). Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi bàn đến vai trò của KH-CN hiện đại, Đảng ta nhấn mạnh: “KH-CN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển KH-CN nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực KH-CN gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực KH-CN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KH-CN hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng KH-CN”(2). Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã thông qua Nghị quyết mới về “Phát triển KH-CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” cũng đã thể hiện rõ hơn điều đó. Ngoài ra, vai trò của KH-CN hiện đại còn được thể hiện rõ trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Khoản 1, Điều 62, Chương III, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: Phát triển KH-CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Như vậy, có thể nói rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển KH-CN hiện đại là “quốc sách hàng đầu” và giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chiến lược phát triển KH-CN ở Việt Nam cần tập trung một số nội dung:

Thứ nhất, ưu tiên phát triển nguồn nhân tài chất lượng cao, chú trọng việc vận dụng kiến thức, kinh nghiệm khoa học của đội ngũ trí thức trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về KH-CN. Trọng tâm là giáo dục và đào tạo ở bậc đại học phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trong đó ưu tiên đầu tư ngân sách cho các ngành khoa học mũi nhọn, những công trình nghiên cứu cấp quốc gia, quốc tế, những công trình ứng dụng có hiệu quả kinh tế cao. Các viện nghiên cứu và các trung tâm khoa học có sự liên thông, liên kết chặt chẽ trên phạm vi cả nước, nhằm khai thác triệt để sức mạnh tổng hợp của nguồn chất xám. Mỗi sinh viên trong suốt quá trình đào tạo phải được biên chế trong một tổ, nhóm nghiên cứu cụ thể, do các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành trực tiếp phụ trách. Kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên sẽ được đánh giá, xếp loại từng học kỳ, từng năm và có giá trị ngang với việc học tập lý thuyết cơ bản. Cần cải cách giáo dục theo hướng tích cực nhằm rút ngắn thời gian đào tạo và trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học.

Thứ hai, phát huy có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng nhân tài. Việc thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ quan trọng, trong đó không chỉ ở các cơ quan Trung ương, mà ở các địa phương cũng cần phải có kế hoạch sử dụng nhân tài, công khai mời gọi và lựa chọn nhân tài KH-CN tiên tiến trong và ngoài nước. Chú ý đến việc xây dựng những tập thể và nhóm nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. Quan tâm và sử dụng có hiệu quả các nhà khoa học tài năng ngoài Đảng vào các vị trí then chốt trong bộ máy chính quyền. Điều đó cần thấu triệt trong cả nhận thức và hành động, khắc phục tình trạng lâu nay, ở không ít nơi chỉ nói lý thuyết suông, chứ chưa thực sự thực hiện.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển KH-CN, chú trọng vào việc việc ứng dụng, sáng tạo công nghệ cao làm động lực cho đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức. Đã từ lâu, chúng ta quan tâm tới việc phát triển KH-CN, song trong lĩnh vực công nghệ chúng ta chưa tập trung vào việc ứng dụng và sáng tạo, phát triển công nghệ cao. Vì vậy, trong thực tế, một mặt, chúng ta không tạo được động lực cho phát triển, mặt khác, với việc ứng dụng công nghệ lạc hậu, một hậu quả tất yếu là sẽ cản trở quá trình CNH, HĐH đất nước; cản trở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội. Đã đến lúc cần phải “tuyên chiến” với công nghệ lạc hậu và chỉ chấp nhận nhập khẩu, ứng dụng và đầu tư sáng tạo công nghệ cao đồng thời với việc sử dụng có hiệu quả những công nghệ hiện có. Là nước đi sau, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có.

Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức, nhất là công nghệ thông tin, chúng ta có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước. Phát triển mạnh KH-CN làm động lực đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực KH-CN; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng… Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ, các sản phẩm KH-CN trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển KH-CN.

Thứ tư, nghiên cứu đưa các sáng chế KH-CN hiện đại vào sản xuất, phát triển các nhóm ngành công nghiệp cơ khí, điện tử – công nghệ thông tin, chế biến tinh lương thực – thực phẩm có hàm lượng KH-CN và giá trị gia tăng ngày càng cao. Trong đó, chú ý nghiên cứu đưa tiến bộ KH-CN sinh học vào phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp tri thức, xây dựng nông thôn mới.

Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quản lý để cung cấp cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của đất nước, nhất là các giải pháp trên lĩnh vực về giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội, giảm nghèo bền vững và hội nhập quốc tế./.

 

TS. Nguyễn Đình Quốc Cường (Theo Tạp chí Tuyên Giáo)

 

 

 

 

 

 

Thông báo: Hội thảo quốc gia về Ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội

 

 

 


1. MỤC ĐÍCH

Đánh giá tình hình, kết quả và triển vọng phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Hội thảo nằm trong chương trình công tác của Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia để chuẩn bị cho công tác đánh giá, tổng kết 10 năm (giai đoạn 2006-2015) thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020.

 

Hội thảo là dịp để các chuyên gia, các nhà khoa học và công nghệ, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cơ sở ứng dụng gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm nhằm tăng cường hợp tác nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

2. THỜI GIAN
Ngày 23-24 tháng 10 năm 2014.

3. ĐỊA ĐIỂM
Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam (Địa chỉ cụ thể sẽ thông báo sau).

4. CƠ QUAN TỔ CHỨC
Cục Năng lượng nguyên tử, cơ quan thường trực Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia và Sở Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng.

5. THÀNH PHẦN THAM DỰ
– Các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà quản lý đến từ các cơ sở nghiên cứu, các cơ sở ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các lĩnh vực: y tế, công nghiệp, nông nghiệp, tài nguyên môi trường,…;
– Lãnh đạo các cơ quan quản lý của các bộ: Khoa học và Công nghệ, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương, Tài nguyên và Môi trường; các sở, ban, ngành, các địa phương có quan tâm;
– Đại diện các doanh nghiệp, nhà sản xuất và cung cấp trang thiết bị;
– Các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân quan tâm đến ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các ngành kinh tế – xã hội;
– Các chuyên gia nước ngoài;
– Phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí trung ương và địa phương.

6. THƯỜNG TRỰC BAN TỔ CHỨC
Trưởng ban: TS. Hoàng Anh Tuấn, Cục trưởng Cục NLNT.
Phó Trưởng ban thường trực: ThS. Lê Doãn Phác, Phó Cục trưởng Cục NLNT.
Phó trưởng ban: TS. Lê Quang Nam, Giám đốc Sở KHCN Đà Nẵng.
Ủy viên thư ký: KS. Nguyễn Thị Yên Ninh, Chánh Văn phòng Cục NLNT.

7. NỘI DUNG
Hội thảo sẽ tập trung vào các nội dung chính sau đây:
a. Tình hình triển khai Quy hoạch tổng thể thực hiện Chiến lược phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020;
b. Kinh nghiệm và thành tựu quốc tế trong phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội;
c. Tình hình, kết quả, triển vọng và giải pháp ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội: y tế, công nghiệp, nông nghiệp, tài nguyên môi trường. Các lĩnh vực chuyên môn bao gồm:
– Y học hạt nhân, xạ trị, chẩn đoán hình ảnh, sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ;
– Kỹ thuật đánh dấu (Tracer), Kỹ thuật kiểm tra không phá hủy (NDT), Kỹ thuật điều khiển hạt nhân (NCS);
– Ứng dụng công nghệ bức xạ (bảo quản thực phẩm, tiệt trùng dụng cụ y tế, vật liệu mới…);
– Đột biến tạo giống cây trồng, tiệt sinh côn trùng;
– Thuỷ văn đồng vị (tài nguyên nước, an toàn đê, đập,…), thăm dò và khai thác khoáng sản, phân tích hạt nhân,…;
– Các lĩnh vực chuyên môn liên quan.

8. TUYỂN TẬP BÁO CÁO HỘI THẢO
Ban Tổ chức sẽ lựa chọn những báo cáo, tham luận để đưa vào Tuyển tập báo cáo Hội nghị.

9. GIAN TRƯNG BÀY
Ban Tổ chức bố trí một gian trưng bày tại địa điểm tổ chức Hội thảo để các chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan, doanh nghiệp giới thiệu các kết quả nghiên cứu, ứng dụng và quảng bá công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

10. ĐĂNG KÝ THAM DỰ VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO
– 31/8/2014: Thời hạn cuối cùng đăng ký tham dự Hội thảo (Mẫu A);
– 10/9/2014: Thời hạn cuối cùng đăng ký sử dụng gian trưng bày (Mẫu B);
– 15/9/2014: Thời hạn cuối cùng gửi báo cáo (tóm tắt và toàn văn) và tham luận (Mẫu C).
– 10/10/2014: Ban Tổ chức gửi giấy mời tham dự Hội thảo và thông báo hình thức báo cáo (oral hoặc poster), tham luận.

11. KINH PHÍ THAM DỰ
– Ban Tổ chức không thu lệ phí tham dự hội thảo.
– Các đại biểu tự thu xếp kinh phí đi lại, ăn, ở để tham dự Hội thảo.
– Các tổ chức, đơn vị và cá nhân có nhu cầu quảng bá công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ chịu trách nhiệm đóng góp kinh phí để Ban Tổ chức bố trí gian trưng bày.
Ban Tổ chức hoan nghênh và trân trọng cảm ơn các đơn vị, cá nhân tài trợ cho Hội thảo!
Địa chỉ liên hệ:
Bà Nguyễn Thị Yên Ninh, Chánh Văn phòng Cục Năng lượng nguyên tử.
Địa chỉ: P1001, Tầng 10, Tòa nhà 113 Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội.
Điện thoại: (+84) 4 38263251, (+84) 904364715, Fax: (+84) 4 39412970.
Email: ntyninh@most.gov.vn;
CC : ntyninh@gmail.com; dthong@most.gov.vn; bthoang@most.gov.vn;
Thông tin về hội thảo được đăng tải trên website của Cục NLNT: http://vaea.gov.vn

Nguồn: Cục Năng lượng nguyên tử

 

 

 

Xây dựng lộ trình công nghệ: Lực đẩy phát triển năng lực doanh nghiệp Việt Nam

 

 

 

Chủ tịch Hội đồng Chính sách KH&CN quốc gia Hoàng Văn Phong phát biểu tại Hội thảo.

Việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ được coi là lực đẩy quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển năng lực của mình.


Đây là quan điểm chung của các đại biểu tham dự Hội thảo “Vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ ở Việt Nam” do Văn phòng Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Quốc gia, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ và Văn phòng các Chương trình KH&CN Quốc gia tổ chức ngày 21/8, tại Hà Nội.

Hội thảo là cơ hội tốt cho các nhà quản lý, viện nghiên cứu, doanh nghiệp gặp gỡ, trao đổi, thảo luận về các vấn đề cần thiết để áp dụng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực hiện nay cũng như các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng kế hoạch phát triển, đổi mới công nghệ.

Tham dự hội thảo có Chủ tịch Hội đồng chính sách KH&CN Quốc gia Hoàng Văn Phong; các Ủy viên và chuyên gia cao cấp của Hội đồng, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ KH&CN; Ban chủ nhiệm các chương trình quốc gia về KH&CN; đại diện đơn vị chức năng của các Bộ Công thương, Quốc Phòng, Giao Thông Vận tải, Kế hoạch và Đầu tư,…; lãnh đạo các Hiệp hội, các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, trường đại học.

Các tham luận tại hội thảo tập trung nêu bật vai trò, lợi ích, tầm quan trọng của việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ ở Việt Nam; đặc thù và khó khăn trong việc thực hiện xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ;…

Theo đó, việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ đóng vai trò hỗ trợ quan trọng đối với việc xây dựng chiến lược, chính sách hỗ trợ phát triển cho các ngành, lĩnh vực, qua đó đánh giá được hiệu quả của các chiến lược, chính sách, các chương trình hỗ trợ đổi mới công nghệ trong từng giai đoạn. Đồng thời giúp các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp nhận diện các công nghệ quan trọng và công nghệ sẽ hỗ trợ cho các sản phẩm ưu tiên trong tương lai; giúp xác định những công việc bị trùng lặp trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển; cho phép chính phủ tham gia tốt hơn vào các hợp đồng nghiên cứu và phát triển với các ngành công nghiệp cụ thể bằng việc xác định tốt hơn chương trình nghiên cứu, kế hoạch thực hiện.

 

Toàn cảnh hội thảo

Lộ trình công nghệ được nghiên cứu từ những thập niên 70 của thế kỷ trước, và bắt đầu thành công ở Motorola khi áp dụng năm 1997. Trong 20 năm qua, hàng nghìn lộ trình công nghệ đã được xây dựng ở hàng chục quốc gia trên thế giới trong nhiều ngành, lĩnh vực cũng như doanh nghiệp với nhiều cách tiếp cận khác nhau được phát triển phù hợp với đặc thù của từng quốc gia. Đã có nhiều bài học thành công từ việc sử dụng lộ trình công nghệ như một công cụ hỗ trợ quá trình quản lý công nghệ ở các nước cũng như các doanh nghiệp trong việc đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trên thị trường thế giới như Hàn quốc, Thái Lan, Singapore…

Tại Việt Nam, việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ còn khá mới mẻ và theo nhiều đại biểu tại hội thảo, công việc này đang gặp nhiều khó khăn. Cụ thể như thiếu cơ sở dữ liệu quốc gia bao gồm các thông tin về hiện trạng của các ngành công nghiệp, khoảng cách công nghệ, năng lực nghiên cứu và phát triển,…; việc huy động nguồn lực và sự đồng thuận của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp;…

Vì vậy, hội thảo này có ý nghĩa quan trọng và là bước khởi động để xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ ở Việt Nam. Từ việc nhận thấy được nhu cầu, tính cấp thiết của việc xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp sẽ đánh giá được thực trạng công nghệ của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Từ đó có kế hoạch phát triển và đổi mới công nghệ một cách thiết thực và hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí đầu tư, nâng cao năng suất chất lượng và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Trên cơ sở ý kiến đồng thuận từ các Bộ, ngành và doanh nghiệp, Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm rõ phương pháp luận cũng như các điều kiện đặc thù để báo cáo Chính phủ và các Bộ ngành về cơ chế cần thiết để hỗ trợ quá trình xây dựng Bản đồ công nghệ quốc gia. Bên cạnh đó, Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ và Văn phòng các Chương trình KH&CN quốc gia tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành triển khai các hoạt động điều tra, đánh giá hiện trạng công nghệ, xây dựng bản đồ công nghệ và lộ trình công nghệ cho các ngành, lĩnh vực cũng như hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng lộ trình công nghệ cho các doanh nghiệp.

Tin, ảnh: Hạnh Nguyên

 

 

 

SMAC – Nền tảng công nghệ phát triển thông minh

 

Chủ đề “SMAC – Nền tảng công nghệ phát triển thông minh” vừa được Viện Khoa học Công nghệ VINASA (VSTI), Hiệp hội phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam VINASA, Viện Công nghiệp phần mềm và Nội dung số Việt Nam (NISCI), Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Công nghệ thông tin (ITI), Đại học Quốc gia Hà Nội, với sự hỗ trợ của các đơn vị trong đó có Microsoft tổ chức tại sự kiện Ngày Công Nghệ Thông Tin 2014 diễn ra sáng nay, tại Hà Nội.

SMAC là nền tảng mới nhất của ngành CNTT thế giới, dựa trên 4 xu hướng hiện đại là Social – xã hội (S), Mobile – di động (M), Analytics – phân tích dữ liệu (A) và Cloud – đám mây (C).

Xu hướng SMAC sẽ giúp kết hợp toàn bộ cấu thành hệ thống một cách chặt chẽ, và tạo ra một hệ sinh thái hoàn chỉnh, lấy con người làm trọng tâm, định hình phát triển xu hướng thông minh mới. Tại sự kiện này, Microsoft đã có phần tham luận xoay quanh chủ điểm Cloud, trọng tâm của SMAC. Bài tham luận nêu bật những ưu điểm về hệ điều hành đám mây Windows Azure, dịch vụ đám mây và vận hành đám mây để có được hiệu quả tối ưu nhất.
Với nhiều trung tâm kinh tế và đô thị phát triển mạnh tại khu vực, Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ SMAC rất lớn. Các doanh nghiệp Việt đang đưa ra các mức đầu tư lớn cho việc cung cấp các dịch vụ trên nền điện toán đám mây.

Ngoài ra, xu hướng Mobility, cũng vấn tiếp tục phát triển với số lượng người dùng ngày càng gia tăng, và làm truyền thông xã hội tại Việt Nam gia tăng mạnh mẽ. Theo con số ước tính, bước nhảy vọt về dịch vụ đám mây, di động, truyền thông xã hội.. này đã đóng góp hơn 80% phương thức giao tiếp online, video online và các nội dung số trên di động. Theo đánh giá của các chuyên gia đầu ngành thì SMAC chính là một cơ hội để Việt Nam đi tắt đón đầu, đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới trong kỷ nguyên số.

Tiến sĩ Nguyễn Việt Hải, Phó chủ tịch VINASA cho biết: “Microsoft là một đối tác quan trọng trong quá trình tư vấn, xây dựng, và phát triển SMAC nói chung và điện toán đám mây tại Việt Nam. Nhờ sự sẵn sàng của hạ tầng dịch vụ Windows Azure, Hạ tầng như một Dịch vụ -IaaS, Microsoft hiện là nhà cung cấp điện toán đám mây duy nhất có thể cung cấp cho khách hàng một giải pháp điện toán đám mây lai toàn diện. Giải pháp này tích hợp cơ sở hạ tầng CNTT hiện tại với tất cả các lợi ích của điện toán đám mây công cộng.”

Ngày Công nghệ Thông tin 2014 lần đầu tiên được tổ chức đã thu hút gần 400 đại biểu trong đó có trên 150 đại biểu là lãnh đạo cao cấp, quản lý CNTT các Bộ, Ban, Ngành, và trên 250 lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, báo chí. Chương trình dự kiến sẽ được tổ chức thường niên như một diễn đàn về xu hướng công nghệ của Việt Nam và thế giới.

Ngày Công nghệ Thông tin 2014 lần đầu tiên được tổ chức đã thu hút gần 400 đại biểu trong đó có trên 150 đại biểu là lãnh đạo cao cấp, quản lý CNTT các Bộ, Ban, Ngành, và trên 250 lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, báo chí. Chương trình dự kiến sẽ được tổ chức thường niên như một diễn đàn về xu hướng công nghệ của Việt Nam và thế giới.

Là tập đoàn hàng đầu với hệ sinh thái công nghệ phong phú, dồi dào nhất, từ hạ tầng, cho đến nền tảng, ứng dụng và dịch vụ đám mây, Microsoft được đánh giá là một trong những cố vấn tin cậy và là đối tác quan trọng trong việc đưa ra những giải pháp, sản phẩm, dịch vụ và thiết bị đáp ứng hoàn chỉnh cho xu hướng SMAC. Tham dự sự kiện “Ngày Công nghệ Thông tin 2014” với vai trò là nhà tài trợ chính, Microsoft đã có phần tham luận xoay quanh chủ điểm Cloud, trọng tâm của SMAC. Bài tham luận nêu bật những ưu điểm về hệ điều hành đám mây Windows Azure, dịch vụ đám mây và vận hành đám mây để có được hiệu quả tối ưu nhất.
Q. H

 

 

 

Điểm tin KH&CN từ ngày 16-22/8

 

Thứ trưởng Trần Việt Thanh và đoàn cán bộ cấp cao Bộ KHCN chụp ảnh lưu niệm cùng Thống đốc tỉnh Ibar
Bộ KH&CN có thêm Thứ trưởng; Bố trí tối đa kinh phí cho Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia; Thí điểm áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt: Lối mở cho khoa học công nghệ;…là những thông tin KH&CN đáng chú ý trong tuần qua.
Bộ KH&CN có thêm Thứ trưởng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký quyết định bổ nhiệm bốn Thứ trưởng, trong đó có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.

Ông Phạm Công Tạc (52 tuổi, quê Nam Định) từng giữ các chức vụ: Trưởng phòng Khoa học và Công nghệ nội bộ, Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, Phó chánh văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, Chánh văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ. Quyết định có hiệu lực từ ngày 16/8. (Theo Tạp chí tia sáng 19/8).

Bố trí tối đa kinh phí cho Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia

Để đảm bảo phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước trong năm 2015, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệ dự kiến kinh phí cho năm 2015 ở mức tối đa phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước để hoàn thành ở mức cao nhất Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2011-2015.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu việc phối hợp xây dựng dự toán ngân sách cho khoa học và công nghệ hàng năm phải thực hiện theo quy định tại Luật ngân sách nhà nước, Luật Khoa học và Công nghệ và các văn bản hướng dẫn có liên quan. (Theo Báo Khoa học phổ thông 22/8).

Thí điểm áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt: Lối mở cho khoa học công nghệ

Chủ trương tự chủ về KHCN, nhất là đối với những ngành kinh tế quan trọng luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo nhà nước. Nhiều dự án KHCN quy mô lớn đã được triển khai và mang lại hiệu quả to lớn. Đến nay, Bộ KH&CN đã phê duyệt 6 dự án KH&CN phục vụ chế tạo các thiết bị cho ngành xi măng, thủy điện, nhiệt điện, thiết bị điện, đóng tàu… Những kết quả của các dự án KH&CN đã có đóng góp tích cực cho các ngành, lĩnh vực trong những năm qua.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các dự án gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách hỗ trợ do chưa có những cơ chế đặc thù như cơ chế thuê chuyên gia, chuyển giao công nghệ, mua bí quyết công nghệ, huy động nguồn lực, đào tạo… Đặc biệt, do những đặc thù khác biệt về cơ chế quản lý nên đến nay các dự án KH&CN phục vụ quốc phòng an ninh chưa triển khai được.

Dự kiến, Đề án “Thí điểm áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt để triển khai dự án KH&CN quy mô lớn phục vụ quốc phòng an ninh và sản phẩm quốc gia” sẽ tiếp tục được hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2014. (Theo Công thương 21/8).

Phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

 

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối với người làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Bộ KHCN

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối với người làm việc trong các đơn vị thuộc lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Đối tượng áp dụng là công chức, viên chức và người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động đã được xếp lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ theo đó mức phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp được tính trên mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) từ 20% đến 70%.

Quyết định có hiệu lưc thi hành từ 1/10/2014. (Theo Báo điện tử chính phủ 19/8).

Việt-Nhật thúc đẩy hợp tác khoa học công nghệ trong nông nghiệp

Đoàn công tác Bộ Khoa học Công nghệ do Thứ trưởng Trần Việt Thanh làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Chính quyền tỉnh Ibaraki nhằm thúc đẩy hơn nữa các hoạt động hợp tác khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn giữa Việt Nam và tỉnh Ibaraki của Nhật Bản.

Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Việt Thanh cũng trao đổi về tiềm năng và đề nghị chính quyền tỉnh ủng hộ các hoạt động khoa học công nghệ nhằm thực hiện các dự án nông nghiệp và phát triển nông thôn trọng điểm ở Việt Nam. Thống đốc Hashimoto cũng bày tỏ quyết tâm trong việc ủng hộ các hoạt động hợp tác khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Ibaraki và mong muốn Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam sớm phái cử cán bộ khoa học tới Ibaraki để tham gia các hoạt động nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ chung trên mọi lĩnh vực,..

Hợp tác khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp với Ibaraki sẽ giúp Việt Nam có cơ hội tiếp cận, học hỏi các thành tựu mới trong khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất của một nền nông nghiệp tiên tiến phục vụ hiệu quả các chương trình, dự án nông nghiệp trọng điểm ở Việt Nam. (Theo vietnamplus 21/8).

Thương mẹ, sáng chế ra thiết bị tự động sưởi ấm cho gà

Em Nguyễn Duy Trí, học sinh lớp 11 Trường PTTH chuyên Đại học Vinh đã thốt lên như vậy khi biết mình đạt giải 3 Hội thi tin học trẻ toàn quốc lần thứ XX năm 2014 với sản phẩm “Thiết bị tự động sưởi ấm cho gà con”

Tìm hiểu qua sản phẩm của Trí sáng chế ra, chúng tôi thấy rõ ưu điểm vượt trội vì với thiết bị này sẽ giúp người chăn nuôi duy trì, đảm bảo được nhiệt độ phù hợp với từng ngày tuổi của gà con, việc điều hòa nhiệt độ cho chuồng gà được thực hiện tự động, khi nhiệt độ cao hơn mức cần thiết thì bóng đèn sẽ tự động tắt, do đó tiết kiệm và tránh hao phí điện năng, giá thành thấp, lắp đặt đơn giản, sử dụng dễ dàng.

 

Niềm đam mê nghiên cứu phần mềm của Trí bên góc học tập của mình.

Thầy giáo Phan Xuân Vọng, Chủ nhiệm lớp của Trí cho chúng tôi biết: “Trí là một học sinh chăm ngoan, học giỏi đều các môn. Đặc biệt, ở em có một niềm đam mê nghiên cứu các phần mềm máy tính nên trong học tập em có rất nhiều ý tưởng sáng tạo. (Theo Báo Quân đội nhân dân 19/8).

Sẽ có trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia đạt chuẩn quốc tế

Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia sẽ được xây dựng mới trong khu các trung tâm và viện nghiên cứu thuộc khuôn viên Đại học quốc gia Hà Nội tại khu CNC Hòa Lạc.

Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia được xây dựng với tiêu chí theo chuẩn quốc tế với các hoạt động bảo tồn, lưu trữ, định danh, đánh giá nguồn gen, xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn gen, kết nối với các trung tâm nguồn gen trong nước và quốc tế. Việc thành lập Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia sẽ góp phần vào việc quản lý và phát triển nguồn gen vi sinh vật theo chuẩn quốc gia, quốc tế. Hơn nữa, từ Trung tâm nguồn gen vi sinh vật quốc gia có thể chủ động nguồn gen trong nước, phát triển công nghệ sản xuất các chế phẩm sinh học thiết yếu phục vụ xã hội và an ninh, quốc phòng. (Theo Khám phá 21/8).

 

Hà Trang (Tổng hợp)

 

 

 

 

 

 

 

Lễ trao Quyết định bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ KH&CN

Bộ trưởng Nguyễn Quân trao Quyết định Bổ nhiệm cho đồng chí Phạm Công Tạc (Ảnh HN)

Ngày 25/8, tại Hà Nội,thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân đã trao Quyết định bổ nhiệm đồng chí Phạm Công Tạc- Chánh Văn Phòng Bộ KH&CN giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ KH&CN.

Tham dự Lễ bổ nhiệm có đại diện các Đồng chí trong Ban cán sự lãnh đạo Bộ KH&CN, các đồng chí đại diện cho các Ban của Đảng, Ban tổ chức trung Ương, Ủy Ban Kiểm tra Trung ương, Đảng Ủy khối cơ quan Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Ban tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chính Phủ, Bộ Nội Vụ…

Tại lễ bổ nhiệm, ông Trần Đắc Hiến, Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ đã đọc Quyết định bổ nhiệm số 1419/QĐ-TTg ngày 16/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm có thời hạn ông Phạm Công Tạc- Chánh văn phòng Bộ KH&CN giữ chức Thứ trưởng Bộ KH&CN.

Ông Phạm Công Tạc (52 tuổi, quê Nam Định) từng giữ các chức vụ: Trưởng phòng Khoa học và Công nghệ nội bộ, Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, Phó chánh văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, Chánh văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ.

 

Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Nguyễn Quân chúc mừng đồng chí Phạm Công Tạc. Bộ trưởng khẳng định, việc Bộ KH&CN có thêm một thứ trưởng chứng tỏ Chính phủ rất quan tâm và kỳ vọng ở sự đóng góp của KH&CN đối với công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Bộ trưởng cũng bày tỏ hy vọng trên cương vị mới, đồng chí Phạm Công Tạc sẽ hết sực nỗ lực cùng với tập thể lãnh đạo Bộ KH&CN hoàn thành suất sắc nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ và Trung ương giao cho.

Phát biểu tại buổi Lễ, đồng chí Chí Phạm Công Tạc đã gửi lời cảm ơn đến các Đồng chí trong Ban cán sự lãnh đạo Bộ KH&CN, các đồng chí đại diện cho các Ban của Đảng, Ban tổ chức trung Ương, Ủy Ban Kiểm tra Trung ương, Đảng Ủy khối cơ quan Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Ban tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chính Phủ, Bộ Nội Vụ.

 

Bộ trưởng phát biểu tại Lễ bổ nhiệm (Ảnh HN)

Trên cương vị mới, đồng chí cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ Bộ KH&CN đã sát cánh cùng đồng chí trong gần 10 năm qua. Đặc biệt là hai đồng chí Bộ trưởng (Bộ trưởng Hoàng Văn Phong trước đây và Bộ Trưởng Nguyễn Quân hiện tại) đã dành cho đồng chí sự tin cẩn, giúp đỡ ân cần chỉ bảo, giúp đồng chí có những tiến bộ nhanh chóng trong thời gian vừa qua. Bản thân đồng chí sẽ cố gắng thực hiện điều Bộ Trưởng Nguyễn Quân thường nói với cán bộ công chức, viên chức của Bộ KH&CN “Mẫn cán, Kỷ luật, Đoàn kết và Nhân ái”.

Mai Hà

 

 

 

Khai mạc Hội nghị giao ban vùng Bắc Trung bộ lần thứ XI

 

Ngày 15/8/2014 tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức Hội nghị giao ban vùng Bắc Trung bộ (vùng) lần thứ XI.


Toàn cảnh Hội nghị

 

Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh; Phó Chủ nhiệm Ủy ban KH&CN Môi trường Quốc Hội Lê Bộ Lĩnh; Phó Chủ tịch Viện KH&CN Việt Nam Dương Ngọc Hải, đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ và các Sở trong vùng. Về phía tỉnh Thừa Thiên Huế có Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đoàn Thị Thanh Huyền; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Ngọc Thọ và đại diện lãnh đạo các đơn vị, ban ngành và đơn vị có liên quan.

Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Ngọc Thọ cho biết, tỉnh Thừa Thiên Huế đã được Bộ Chính trị định hướng tại Kết luận số 48-KL/TW ngày 25/5/2009 xây dựng Thừa Thiên Huế thành trung tâm KH&CN của khu vực miền Trung giai đoạn 2011 – 2020. Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến KH&CN, phê duyệt đề án “Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm khoa học của cả nước”, đặc biệt, sự hợp tác giữa Đại học Huế với Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã dần đi vào phát triển chiều sâu gắn với nhu cầu thực tiễn. “Hội nghị là dịp để các đại biểu cùng nhìn nhận, đánh giá, xem xét, chia sẻ kinh nghiệm để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong vùng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội của từng tỉnh”, Phó Chủ tịch bày tỏ.


Thứ trưởng Trần Quốc Khánh phát biểu tại Hội nghị

Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh đánh giá cao các hoạt động KH&CN trong vùng thời gian qua như: Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TĐC), An toàn bức xạ hạt nhân, quản lý công nghệ, quản lý sở hữu trí tuệ, thanh tra,… Đặc biệt trong nghiên cứu, tuyển chọn, thử nghiệm các giống mới, giống lai có năng suất cao và chất lượng tốt; cải tiến đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu trong các doanh nghiệp; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, giới thiệu mô hình KH&CN ngày càng đa dạng và được nhiều người dân quan tâm,…

Thứ trưởng cũng lưu ý đến Luật KH&CN năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành: Nghị quyết số 46/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Quyết định số 1244/QĐ-TTg về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015; Quyết định số 418/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2020,… “ Đây là những hành lang pháp lý quan trọng cần được triển khai, tổ chức và thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ để thúc đẩy phát triển KH&CN của đất nước trong thời gian tới”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Bên cạnh những thành tựu về KH&CN của vùng đã đạt được, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho rằng, các sở trong vùng cần tham mưu cho UBND tỉnh tiếp tục triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW; góp ý các Dự thảo của Bộ KH&CN; tập trung phát triển và bảo tồn nguồn quỹ gen tại địa phương; tiếp tục mở rộng liên kết và tăng cường hợp tác về KH&CN liên tỉnh, liên vùng; lựa chọn và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế đặt hàng; nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN qua các hoạt động sở hữu trí tuệ, TĐC, công tác an toàn bức xạ hạt nhân, thanh tra KH&CN,…; xây dựng và phát triển kinh tế với nước bạn Lào,…

Theo báo cáo của Vụ Phát triển KH&CN địa phương (Bộ KH&CN), thời gian qua, Sở KH&CN các tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND ban hành 115 văn bản cụ thể hóa các văn bản của Trung ương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN theo đặc thù của địa phương. Trong đó, các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An đã có những đề xuất cơ chế hỗ trợ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới vào thực tiễn.

Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã được thực hiện theo đặt hàng nhằm giải quyết các vấn đề xuất phát từ nhu cầu thực tế, 65% các nhiệm vụ KH&CN đã tập trung vào chuyển giao, ứng dụng công nghệ.

Kết quả có 18 nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia được thực hiện thuộc các chương trình Nông thôn miền núi; cấp tỉnh có 463 nhiệm vụ được thực hiện bao gồm: lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn 105 nhiệm vụ, (chiếm 22,7 %); lĩnh vực khoa học tự nhiên có 17 nhiệm vụ (chiếm 3,7 %); lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ có 110 nhiệm vụ (chiếm 23,8 %); lĩnh vực Y tế – giáo dục có 47 nhiệm vụ (chiếm 10,1 %); lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản có 172 nhiệm vụ (chiếm 37,1%) các lĩnh vực khác là 12 nhiệm vụ (chiếm 2,6%).

Đồng thời, một số kết quả đã được ứng dụng thành công tại một số địa phương như: ứng dụng hệ thống chụp mạch kỹ thuật số trong chẩn đoán và điều trị bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Thanh Hóa; ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình sinh sản giống nhân tạo và nuôi thương phẩm cá Vược tại Nghệ An; xây dựng mô hình trồng cỏ nuôi bò lai Sind ở thôn Bắc Bình xã Cam Tuyền tỉnh Quảng Trị; nghiên cứu giá trị của các kỹ thuật nội soi tiêu hóa can thiệp mới trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý tiêu hóa Trường Đại học Y Dược Huế,…

Đối với hoạt động Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, 217.989 phương tiện đo lường đã được kiểm định; 334 sản phẩm được công bố tiêu chuẩn; 47.547 mẫu sản phẩm hàng hóa được thử nghiệm nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước; 248 cơ quan hành chính nhà nước đã triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008,…

Về hoạt động sở hữu trí tuệ, toàn vùng đã có 642 đơn đăng ký bảo hộ và 502 văn bằng bảo hộ đã được cấp. Bên cạnh đó, các tỉnh trong vùng đã triển khai thực hiện các dự án xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm đặc sản, làng nghề truyền thống nhằm nâng cao giá trị kinh tế, góp phần phát triển thương hiệu, gìn giữ, phát huy giá trị của các sản phẩm đặc sản của làng nghề truyền thống trong tiến trình hội nhập.

Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, các sở đã chú trọng đẩy mạnh hợp tác với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, đồng thời kết nối với 12 đơn vị, trong đó có 3 doanh nghiệp KH&CN tham gia triển khai kết quả KH&CN,…

Tuy nhiên, tại Hội nghị, phần lớn các đại biểu đều cho rằng, việc phân bổ kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN vẫn tăng theo chiều rộng thay vì đầu tư thành chuỗi giá trị cho sản phẩm chủ lực của địa phương và thiếu các nhiệm vụ có tính liên tỉnh, liên vùng. Bên cạnh đó, hệ thống cung cấp, trao đổi thông tin giữa các tỉnh về danh mục, kết quả các nhiệm vụ KH&CN vẫn còn xảy ra tình trạng trùng lặp; hoạt động nghiên cứu triển khai trong các doanh nghiệp chưa được đẩy mạnh,… Đặc biệt, sản phẩm chủ lực của vùng chưa được đầu tư một cách thỏa đáng như công nghệ chế biến sâu khoáng sản; công nghệ bảo quản chế biến nông, lâm sản; phát triển bền vững cây dược liệu,…


Thứ trưởng Trần Quốc Khánh và Phó Chủ tịch Phan Ngọc Thọ trao Giấy chứng nhận cho các đơn vị đầu mối tại Triển lãm

Trong khuôn khổ Hội nghị Hội nghị giao ban vùng lần thứ XI, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức Triển lãm trưng bày, giới thiệu một số sản phẩm KH&CN vào ngày 14/8/2014.

Hội nghị giao ban KH&CN các vùng được Bộ KH&CN chủ trương phối hợp với các địa phương tổ chức luân phiên định kỳ 2 năm một lần. Tại Hội nghị giao ban KH&CN vùng lần tới, Thanh Hóa sẽ là tỉnh đăng cai chủ trì tổ chức Hội nghị giao ban KH&CN vùng lần thứ XII năm 2016.

Nguồn: Ngũ Bùi, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Truyền thông KH&CN

 

 

 

Hội thảo “Hệ quản trị thư viện thích hợp nguồn mở KOHA”

 


Ngày 14/8/2014, tại Hà Nội, Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia (NASATI) phối hợp với Hội Thông tin khoa học và công nghệ Việt Nam (VASTI), Công ty cổ phần tư vấn và tích hợp công nghệ D&L tổ chức Hội thảo " Hệ quản trị thư viện thích hợp nguồn mở KOHA", nhằm đẩy mạnh sử dụng các phần mềm tự do nguồn mở (hay còn gọi là phần mềm mã nguồn mở – viết tắt là PMNM) trong lĩnh vực thông tin – thư viện, góp phần hạn chế vi phạm bản quyền phần mềm.

 


Toàn cảnh Hội thảo

Tham dự Hội thảo có ông Đào Mạnh Thắng – Phó Cục trưởng Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia; ông Phạm Thế Khang – Chủ tịch hội Thư viện Việt Nam; bà Vũ Dương Thuý Ngà – Vụ phó Vụ Thư viện và ông Hoàng Dũng – Giám đốc Công ty cổ phần tư vấn và tích hợp công nghệ D&L, cùng các khách mời đến từ các cơ quan, ban ngành có liên quan.

Sau bài phát biểu mở đầu buổi Hội thảo của ông Đào Mạnh Thắng – Phó Cục trưởng Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia, Ông Hoàng Dũng – đại diện bên công ty Công ty D&L đã có bài giới thiệu tổng quan về "Hệ quản trị thư viện tích hợp nguồn mở KOHA". KOHA là hệ quản trị thư viện tích hợp (Integrated Library System) mã nguồn mở đầu tiên trên thế giới, phát triển ban đầu tại NewZealand bởi Katipo Communications Ltd và được triển khai vào tháng 1/2000 cho thư viện Horowhenua Trust, New Zealand. Cho đến nay, KOHA đã trở thành hệ quản trị thư viện mã nguồn mở được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Dựa trên số lượng các thư viện sử dụng KOHA đăng ký trên hệ thống lib-web-cats, toàn thế giới đã có hơn 1.700 thư viện đang sử dụng KOHA. Tuy nhiên, đây chưa phải là số thống kê cuối cùng vì còn rất nhiều thư viện chưa đăng ký trên hệ thống.

Việc được sử dụng phổ biến trong giới thư viện đã khẳng định KOHA là một sản phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu sử dụng của mọi loại hình và kích cỡ thư viện, đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế về thư viện và không ngừng được cải tiến nâng cấp. Thành công của KOHA dựa vào các nhân tố chủ yếu sau: Có đầy đủ các phân hệ và tính năng của hệ quản trị thư viện tích hợp (OPAC, biên mục, lưu thông, bổ sung, quản lý ấn phẩm định kỳ, quản trị, bạn đọc, báo cáo); tuân thủ tất cả tiêu chuẩn quốc tế về thư viện; hoạt động trên giao diện Web; Có thể cài đặt miễn phí vì là phần mềm mã nguồn mở; không phụ thuộc vào nhà sản xuất. Người sử dụng tự quyết định họ muốn gì ở hệ thống; liên tục được duy trì và phát triển bởi cộng đồng công nghệ thông tin và Thư viện http://koha-community.org/).

Tại Việt Nam, KOHA và cộng đồng sử dụng KOHA được phát triển và hỗ trợ bởi Công ty cổ phần tư vấn và tích hợp công nghệ D&L, đơn vị có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực CNTT thư viện. KOHA được đánh giá là đặc biệt phù hợp với hệ thống thư viện Việt Nam (vốn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực và tài chính) với các lý do sau: Đáp ứng hoàn toàn các yêu cầu quản trị và sử dụng của thư viện đối với một hệ quản trị thư viện tích hợp; chi phí đầu tư hạ tầng để cài đặt phần mềm thấp: thư viện có thể sử dụng máy chủ/ máy tính đặt tại thư viện hoặc có thể thuê hosting của nhà cung cấp dịch vụ; không mất phí bản quyền phần mềm; không giới hạn số lượng cán bộ quản trị truy cập hệ thống; có khả năng tự tùy biến hệ thống; có được sự hỗ trợ miễn phí từ cộng đồng sử dụng.

Nguồn: Đ.T.V (NASATI)

 

 

 

Nhà khoa học đạt giải Nobel dự hội nghị vật lý tại Việt Nam

Giáo sư Englert. (Nguồn: Getty images)
Ngày 11/8, tại thành phố Quy Nhơn (Bình Định), Hội Gặp gỡ Việt Nam đã khai mạc Hội nghị khoa học quốc tế về Vật lý với chủ đề “Vật lý hóa máy va chạm Hadron lớn và xa hơn” lần thứ tư năm 2014.

 

Tham dự hội nghị có 120 giáo sư, tiến sỹ và các nhà nghiên cứu khoa học đến từ 25 nước trên thế giới. Đặc biệt, hội nghị lần này còn có sự tham dự của giáo sư Englert, quốc tịch Bỉ – người đã đạt giải thưởng Nobel quốc tế năm 2013.

Sau khai mạc, các nhà khoa học trình bày tham luận đánh giá về tầm quan trọng của việc nghiên cứu “Vật lý hóa máy va chạm Hadron lớn và xa hơn.”

Nói về mục đích nghiên cứu cơ bản, giáo sư Englert chia sẻ năm 1964, các nhà khoa học đã tiên đoán sự tồn tại của các hạt boson vô hướng hay còn gọi là hạt boson Brout-Englert-Higgs (BEH). Các hạt này có vô số trong vũ trụ và nhờ chúng mà các hạt cơ bản khác có khối lượng thông qua tương tác với các hạt vô hướng này. Điều này có nghĩa là các hạt boson BEH có thể chuyển đổi tương tác tầm xa thành tương tác tầm gần. Đây là cơ chế BEH để giải thích gốc khối lượng của các hạt cơ bản. Gần đây, Trung tâm nghiên cứu CERN ở châu Âu đã tìm ra một hạt vô hướng giống hạt BEH. Qua đó càng chứng minh tính đúng đắn của tiên đoán lý thuyết trên.

Giáo sư-viện sỹ Nguyễn Văn Hiệu, nguyên Viện trưởng Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam, cho biết đứng về phương diện thế giới, đây là một hội nghị quan trọng và là sự kiện vật lý lớn nhất, cung cấp những kiến thức cơ bản nhất, xây dựng thế giới vật chất. Việt Nam cần tổ chức nhiều hội nghị như thế này để tranh thủ sự chia sẻ của những nhà khoa học hỗ trợ Việt Nam trong việc nghiên cứu và phát triển vật liệu mới. Đây là lĩnh vực phục vụ phát triển các ngành công nghiệp đóng tàu, vũ khí, công nghệ thông tin… của Việt Nam.

Cũng trong chương trình hội nghị, Hội Gặp gỡ Việt Nam, Trường Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã có buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Bình Định về phát triển khoa học-công nghệ-giáo dục và Dự án xây dựng công viên khoa học tại phường Ghềnh Ráng, thành phố Quy Nhơn. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Lê Hữu Lộc chỉ đạo các ngành thành lập Ban quản lý dự án để đến tháng 8/2015 khởi công xây dựng.

Hội nghị diễn ra đến 17/8./.

Nguồn tin: vietnamplus

 

 

 

Kinh nghiệm từ Nhà xuất bản Wiley cho các Nhà xuất bản ở Việt Nam

 

TTĐ-Ngày nay, nền xuất bản thế giới đang chứng kiến sự bứt phá của công nghệ thông tin đã tạo ra một siêu lộ thông tin toàn cầu, làm cho không gian và thời gian truyền tin được rút ngắn tối thiểu. Việc chuyển dịch mạnh mẽ từ hình thức xuất bản truyền thống sang nhiều hình thức khác nhau như xuất bản điện tử, phát hành và công bố tác phẩm trên mạng Internet, phát triển phương tiện nghe, nhìn, đọc sách trên mạng di động… đang trở thành xu thế của thế giới hiện đại.

 

 

Bối cảnh xuất bản trong tình hình mới

Đối tượng bạn đọc hiện nay cũng rất đa dạng và có sự phân nhóm sâu sắc. Trong bối cảnh xã hội có dân trí cao và đời sống kinh tế khá, nhu cầu bạn đọc rất phong phú, đa dạng, đa chiều do những quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập với nhau về các chuẩn giá trị luôn tồn tại. Vì vậy, theo quy luật cung cầu của thị trường, các NXB, tập đoàn xuất bản buộc phải đưa ra những xuất bản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Xu hướng xuất bản hiện nay của thế giới không những đa dạng hóa các loại hình xuất bản, là xu hướng rất phát triển ở các nước tiên tiến và đang cạnh tranh gay gắt với xu hướng xuất bản truyền thống, cách đọc truyền thống… mà còn đọc để làm việc, để hành nghề, áp dụng trực tiếp vào công việc của mỗi cá nhân. Bởi vậy, xuất bản phẩm hiện nay rất đa dạng, nhiều loại hình khác nhau nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người đọc và tạo thành một xã hội học tập.

Trên thực tế, các tập đoàn xuất bản lớn trên thế giới đều xuất phát từ một cửa hàng sách (springer) hoặc xưởng in nhỏ như (wiley)…trong quá trình phát triển, nhờ xây dựng được chiến lược tốt nên không ngừng phát triển và trở thành những tập đoàn xuất bản lớn trên thế giới, có sản phẩm đa dạng, các nhà xuất bản trên thế giới ngoài sản phẩm sách in, sách điện tử, còn xuất bản tạp chí và các sản phẩm khác…Học hỏi từ kinh nghiệm phát triển, mục tiêu phát triển và kế hoạch thực hiện, các chính sách, quy trình xuất bản của họ là rất cần thiết cho các Nhà xuất bản Việt Nam có cái nhìn bao quát cũng như xác định định hướng cho mình một cách chính xác, những bước đi chắc chắn trên con đường phát triển của mình.

Trong khi đó ở Việt Nam, kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy mọi ngành nghề, trong đó có ngành xuất bản, báo chí…, phát triển. Trong điều kiện thành lập nhiều NXB, tạp chí, là cơ hội để Nhà xuất bản nâng cao năng lực, phát huy sự năng động trong việc thực hiện nhiệm vụ, hoạt động sản xuất, phát triển thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế tri thức một mặt thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế đất nước, mặt khác làm nảy sinh nhu cầu nâng cao tri thức là một trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, trở thành cơ hội để ngành xuất bản, báo chí phát triển nhanh chóng. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu và chuyển đổi phương thức sản xuất cũng tạo thêm cơ hội phát triển cho ngành xuất bản, báo chí. Việc chuyển dịch mạnh mẽ từ hình thức xuất bản truyền thống sang nhiều hình thức và phương tiện khác như nghe, nhìn giúp ngành xuất bản, báo chí Việt Nam hội nhập và có bước tiến vượt bậc, tiếp cận trình độ của các nước tiên tiến.

Mục tiêu của việc chủ động hội nhập tế quốc tế là nhằm “Mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lí để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, ban hành ngày 27/11/2001). Các mục tiêu trên đây có thể coi là thời cơ cho sự phát triển của một ngành xuất bản hiện đại. Đặc biệt, với việc Việt Nam tham gia Công ước Berne về bản quyền (tháng 10/2004), gia nhập WTO và thực hiện đầy đủ cam kết AFTA (2006), các NXB sẽ có thêm động lực để tự hoàn thiện mình trước khi bước vào công cuộc hội nhập.

Trong thời gian vừa qua, ngành xuất bản, báo chí phải đối diện với những thách thức lớn như chất lượng hoạt động xuất bản còn nhiều hạn chế, vẫn tồn tại nhiều xuất bản phẩm có tính giáo dục thấp, chất lượng kém; khuynh hướng thương mại hoá, chạy theo lợi nhuận kinh tế thuần tuý; hiện tượng NXB “bán giấy phép” để cho đối tác chi phối nội dung bản thảo… là hệ quả của mặt trái cơ chế thị trường.

Kinh nghiệm của Việt Nam về kinh tế thị trường chưa nhiều nên việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, đổi mới công tác chỉ đạo quản lý hoạt động xuất bản tuy đã đạt được những tiến bộ nhất định song vẫn chưa thích ứng kịp với biến đổi của thực tiễn. Đây là những thử thách mà ngành xuất bản phải đối diện và đòi hỏi ngành phải tìm kiếm phương hướng phát triển phù hợp hơn.

Thực tế, trong những năm qua, việc xuất sách báo của Việt Nam hoặc bán bản quyền dịch các tác phẩm Việt Nam ra nước ngoài còn hạn chế trong khi thị trường trong nước tràn ngập sách dịch hoặc sách bằng tiếng nước ngoài của các nước khác. Tỷ lệ giữa nhập khẩu và xuất khẩu xuất bản phẩm còn chênh lệch rất lớn (nhập 70% và xuất 30%).

Một vấn đề đang khá nan giải đối với ngành xuất bản Việt Nam là tệ nạn xâm phạm bản quyền. Thời gian cung ứng hàng của sách in lậu nhanh chóng hơn sách gốc nhập khẩu, do được in tại địa phương nên những tổ chức làm sách lậu có thể cung ứng một số lượng lớn sách trong khoảng thời gian ngắn, trong khi các nhà nhập khẩu sách chân chính thì cần ít nhất một tháng mới có thể nhập sách về từ các nước châu Á và hai tháng nếu sách ở Anh, Mỹ, Australia… Đây thực sự là một thử thách lớn cho thị trường sách ngoại văn hợp pháp.

Ngành xuất bản, báo chí Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Để góp phần phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đáp ứng những yêu cầu phát triển của đất nước, ngành xuất bản, báo chí cần tiếp tục đổi mới để có những bước đi thích hợp trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hóa, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế. Trong đó, việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong hoạt động xuất bản, báo chí: Tham gia triển lãm, hội chợ; tổ chức tiêu thụ, khai thác và mở rộng thị trường quốc tế; tổ chức sáng tác, dịch, xuất bản giới thiệu văn hóa lịch sử Việt Nam; trao đổi bản quyền là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng. Vì thế, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế của các nhà xuất bản lớn trên thế giới là một việc nên làm, qua đó rút kinh nghiệm của những người đi trước trong quá trình nghiên cứu phát triển và triển khai cho các Nhà xuất bản, tạp chí Việt Nam hiện nay trong quá trình hội nhập. Xuất phát từ bối cảnh trong nước, quốc tế cũng như định hướng, mục tiêu phát triển ngành xuất bản cũng như căn cứ vào Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển khoa học và công nghệ với mục tiêu là phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường…Để thực hiện được những mục tiêu trên một cách tốt nhất, cần có một môi trường làm việc tốt, thúc đẩy năng lực sáng tạo, đổi mới cũng như phát huy tính tự chủ con người, khuyến khích sự liên kết và trao đổi của cộng đồng những người làm công tác khoa học.

“Gã khổng lồ Wiley” và những kinh nghiệm

Là Nhà xuất bản nổi tiếng môi trường kinh doanh và làm việc tốt, tiêu biểu là năm 2004, Wiley thuộc top những nơi làm việc tốt nhất trong danh sách của cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, năm 2006, thuộc top 100 công ty có môi trường làm việc tốt nhất do tạp chí Fortune bình chọn, năm 2007, Wiley được chọn là 1 trong 20 công ty xuất bản có môi trường làm việc tốt nhất do tạp chí Book Business bình chọn sẽ là bài học kinh nghiệm tốt cho các Nhà xuất bản, báo chí Việt Nam học hỏi. Wiley cũng là một nhà xuất bản hàng đầu thế giới với các sản phẩm in ấn và điện tử bao gồm cả sách, tạp chí khoa học, học thuật, giáo dục… nội dung chất lượng cao và sản xuất đạt tiêu chuẩn. Với sứ mệnh mang đến cho độc giả những kiến thức về nhiều lĩnh vực khoa học dưới nhiều hình thức khác nhau đồng thời phục vụ tốt độc giả thuộc nhiều loại ngôn ngữ khác nhau. Đây là một Nxb có tầm nhìn và uy tín. Các nhà xuất bản của Việt Nam có thể nhìn thấy những bài học kinh nghiệm về lĩnh vực xuất bản từ gã khổng lồ này ở những yếu tố như:

Một là bài học kinh nghiệm về hàm ý xây dựng chiến lược phát triển: Với quy mô và lịch sử hoạt động lớn trên phạm vi toàn cầu của nhà xuất bản Wiley, các nhà xuất bản, tạp chí Việt Nam có thể học hỏi từ mô hình quản lý và hoạt động kinh doanh chuyên nghiệp của họ, trong quá trình hoạt động và phát triển, việc quản trị sao cho hợp lý và hiệu quả của Nhà xuất bản luôn được đề cao và học hỏi từ các nhà xuất bản khác.

Hai là bài học về xây dựng Định hướng phát triển: Cùng với sự phát triển các dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp, theo nhu cầu từ thị trường, các nhà xuất bản cần định hướng phát triển với mục tiêu hướng về khách hàng, xuất phát từ phục vụ nhu cầu của khách hàng thay vì duy trì tư duy cũ.

Chỉ có xác định rõ và thực hiện tốt các định hướng phát triển, sẵn sàng cạnh tranh trên thị trường thì các nhà xuất bản mới có thể đứng vững trong điều kiện hiện nay khi các nhà xuất bản, tạp chí được thành lập nhiều, các công ty sách tư nhân hoạt động rất hiệu quả. Nhà xuất bản, tạp chí cần hướng tới sự mở rộng phát triển ngoài phạm vi cơ quan chủ quản, các cơ quan quản lý ngành,… cần xác định rõ định hướng phát triển trong việc khai thác thị trường rộng lớn, tự tìm hiểu thị hiếu thị trường và tự xuất bản các sản phẩm để tung ra thị trường.

Đặc biệt, ngày nay khi các nguồn tài nguyên được số hóa mang lại tiện ích cao cho người sử dụng và tiết kiệm cả thời gian và chi phí cho người dùng, khách hàng cũng có xu hướng tìm đến các sản phẩm trực tuyến, vì vậy khi xác định chiến lược phát triển tập trung vào sản phẩm tiện ích trực tuyến, các nhà xuất bản, tạp chí khoa học không chỉ tiếp cận được với số lượng khách hàng rộng lớn hơn mà còn là một hình thức để cơ cấu lại việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của nhà xuất bản, tạp chí trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

Tiếp đến là bài học về mô hình quản trị: Muốn hoạt động tốt, việc xây dựng mô hình tổ chức chuyên nghiệp, đầy đủ các vị trí cốt yếu quan trọng trong chuỗi hoạt động cần được đề cao. Tiêu chí quản trị nhà xuất bản cần nắm được, đó là: Chuyên môn hóa, Chuyên nghiệp và có năng lực. Cần đào tạo đội ngũ nhân lực có năng lực, làm việc chuyên nghiệp và nâng cao tính chuyên môn hóa nhiệm vụ.

Một bài học nữa là về tổ chức đội ngũ mạng lưới tác giả, cộng tác viên

Nhà xuất bản, tạp chí cần chú trọng xây dựng nhóm tác giả có kinh nghiệm, sáng tạo để cung cấp các bản thảo có chất lượng tốt, cung cấp cho khách hàng nhiều sản phẩm được yêu thích, góp phần tăng thêm uy tín và lợi nhuận cho nhà xuất bản. Đưa ra các tiêu chí cụ thể về quyền và nghĩa vụ của tác giả, nêu cao tính cam kết, đánh giá thường xuyên hoạt động của đội ngũ tác giả nhằm kiểm soát được chất lượng cũng như tạo mối liên kết chặt chẽ giữa những nhà quản trị với tác giả. Đảm bảo cho hoạt động của đội ngũ tác giả luôn ổn định và tránh những rủi ro phát sinh. Bài học từ nhà xuất bản Wiley cần được xem xét đến, đó là việc thực hiện các cam kết, có ký kết bằng văn bản các thỏa thuận về quyền tác giả, theo quy định của pháp luật. Một khi việc làm này được thực hiện nghiêm túc sẽ giảm bớt được các thắc mắc và những phát sinh về liên kết giữa nhà xuất bản với đội ngũ tác giả.

Xây dựng đội ngũ cộng tác viên thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau giúp nhà xuất bản, tạp chí có thêm nguồn ý tưởng cho các sản phẩm và sự đóng góp ý kiến cho hoạt động của mình. Đội ngũ cộng tác viên khi được khuyến khích bằng các quyền lợi hợp lý, họ sẽ là đội ngũ chủ chốt trong việc khai thác các thị trường mới, phát hiện ra những đề tài nổi bật, cung cấp ý tưởng cho nhà xuất bản, tạp chí. Ngoài ra, cộng tác viên cũng có thể là những nhân viên tiềm năng của nhà xuất bản trong tương lai.

Ban quản trị cần chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp đặc trưng, chú trọng đến chất lượng môi trường làm việc, tạo sự tin tưởng và niềm say mê trong công việc. Đó là một giải pháp để sáng tạo ra những sản phẩm hữu ích./.

Trương Yến Minh & Nguyễn Thị Tuyết

NXB Khoa học & Kỹ thuật

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Wiley, Author services, http://authorservices.wiley.com/
Wiley, Resources, http://as.wiley.com/WileyCDA/Section/id-301840.html
Wiley, Wiley online library, http://olabout.wiley.com/WileyCDA/Section/id-406074.html
Wiley, Brands & Imprints, http://www.wiley.com/WileyCDA/Section/id-302256.html
Wiley (2009), Reviewing guideline, http://www.wiley-vch.de/vch/journals/2126/2126_forreferees_2008.pdf
Wiley, Exchange, http://exchanges.wiley.com/blog/2011/06/28/very-rapid-publication-a-case-history/
Wiley (2014), Best Practice Guidelines on Publishing Ethics A Publisher’s Perspective, Second edition,http://www.revistacomunicar.com/pdf/2014-03-19-best-practice-guidelines.pdf
Digital Book World, How to publish an Ebook, http://www.digitalbookworld.com/how-to-publish-ebook/