Ứng dụng công nghệ khối phổ MALDI-TOF MS nâng cao chất lượng dịch vụ thử nghiệm trong phân tích vi sinh vật

Nhằm đáp ứng nhu cầu định danh hoặc khẳng định nhanh và chính xác vi sinh vật tạp nhiễm trong thực phẩm, môi trường… phục vụ nhu cầu của cơ quan quản lý và doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3 ( Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ) đã đầu tư, trang bị nhiều thiết bị hiện đại, trong đó có công nghệ khối phổ MALDI-TOF MS (Matrix Assisted Laser Desorption Ionization-Time of Flight Mass Spectrometry) nhằm nhận diện các vi sinh vật chính xác đến mức loài hoặc chi trong khoảng thời gian rất ngắn, với độ chính xác và tin cậy cao, giúp doanh nghiệp chủ động kiểm soát ô nhiễm vi sinh trong thực phẩm, nguyên liệu, môi trường sản xuất và đánh giá mối nguy do ô nhiễm vi sinh vật gây ra.

Để đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP), việc loại trừ các tác nhân nguy hại về vật lý, hoá học và sinh học được đặt lên hàng đầu. Trong đó, tác nhân sinh học được quan tâm hơn cả do khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh chóng khi gặp điều kiện thuận lợi. Chúng không chỉ gây hư hỏng thực phẩm mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây ngộ độc cho người dùng. Trong quá trình sản xuất thực phẩm, việc phát hiện hay định danh được vi sinh vật tạp nhiễm trong nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm sẽ cung cấp thông tin quý giá để nhà sản xuất đưa ra phương án xử lý kịp thời. Trong công tác kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm hay điều tra dịch tễ, giai đoạn khẳng định là một bước then chốt trong việc kết luận sự hiện diện của vi sinh vật gây bệnh trong sản phẩm được kiểm tra. Vì vậy, các quá trình định danh hay khẳng định vi sinh vật luôn đòi hỏi sự chính xác cao và kịp thời để cung cấp các thông tin chính xác, định hướng cho các phương án xử lý.

Công nghệ MALDI-TOF MS là một phương pháp phân tích khối phổ tiên tiến sử dụng tia laser để ion hóa mẫu kết hợp với thời gian bay. Đây là phương pháp sử dụng công nghệ hiện đại, giúp định danh vi sinh vật bằng dấu ấn phân tử, dựa trên sự so sánh độ tương đồng khối phổ Protein ribosome của vi sinh vật mục tiêu với cơ sở dữ liệu khối phổ vi sinh vật chuẩn. Công nghệ MALDI-TOF MS không chỉ giúp các phòng thử nghiệm giảm nhân lực, vật lực, thời gian trả kết quả mà còn cung cấp thông tin hữu ích cho các đơn vị sản xuất kịp thời cô lập, phân vùng các sản phẩm bị biến tính, xác định nguồn nguyên liệu thô ban đầu đảm bảo an toàn, thu hồi các lô thực phẩm không đạt chất lượng hoặc xuất xưởng các lô thực phẩm an toàn, nhanh chóng đưa ra giải pháp khắc phục, giảm thiểu thiệt hại. Công nghệ MALDI-TOF MS không chỉ hỗ trợ mà còn khắc phục được các nhược điểm tồn tại từ lâu đời của các phương pháp phân tích vi sinh truyền thống vốn đòi hỏi nhiều nhân lực và thời gian phân tích kéo dài.

Hệ thống Bruker MALDI Biotyper tại Phòng Thí nghiệm Vi sinh-GMO của Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3 (QUATEST 3).

Là thành viên Phòng Thử nghiệm kiểm chứng ASEAN (ASEAN Food Reference Laboratory (AFRL) trong lĩnh vực phân tích vi sinh trong thực phẩm, để đáp ứng yêu cầu phát triển, QUATEST 3 đã đầu tư hệ thống Bruker MALDI Biotyper nhằm giúp định danh và khẳng định vi sinh vật một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Với quy trình phân tích này, tất cả các công đoạn định danh vi sinh, từ chuẩn bị mẫu đến phân tích phổ và xem xét kết quả đều được thực hiện tự động, khép kín, cho kết quả nhanh, chính xác. Với thư viện tham chiếu lớn, cập nhật liên tục, hệ thống này có nhiều ưu điểm vượt trội: kết quả định danh chính xác đến loài hoặc chi, thời gian thử nghiệm nhanh (khoảng 15-30 phút), kỹ thuật thực hiện đơn giản và không bị ảnh hưởng bởi các loại môi trường nuôi cấy khác nhau.

Kết quả định danh một số vi khuẩn được phân tích trên hệ thống Bruker MALDI Biotyper tại QUATEST 3.

Hiện tại, hệ thống trên đã được trang bị cho Phòng Thí nghiệm Vi sinh – GMO của QUATEST 3 để định danh và khẳng định vi sinh vật, giúp việc kiểm soát ô nhiễm vi sinh trong thực phẩm, nguyên liệu, môi trường sản xuất và đánh giá mối nguy do ô nhiễm vi sinh vật gây ra được thuận lợi. Với việc đầu tư hệ thống Bruker MALDI Biotyper, QUATEST 3 đã từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ, giúp khách hàng định danh nhanh, chính xác nhất các vi sinh vật. Dịch vụ này hoàn toàn có thể thực hiện việc thử nghiệm và trả kết quả trong ngày (trong một số trường hợp, việc định danh này có thể dài hơn một ngày tùy theo tính chất mẫu thử là khuẩn lạc tươi hay phân lập từ mẫu vật).

Phong Vũ

Lào Cai: Ứng dụng công nghệ tiên tiến phát triển bền vững đàn trâu theo chuỗi giá trị

Nhằm khai thác thế mạnh và tiềm năng của tỉnh Lào Cai trong việc chăn nuôi trâu thịt để đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng, du lịch và tiến tới xuất khẩu; Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt dự án “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sinh sản và trồng, chế biến cây thức ăn chăn nuôi nhằm phát triển bền vững đàn trâu hàng hoá theo chuỗi giá trị tại tỉnh Lào Cai”. Dự án có mục tiêu là xây dựng mô hình trang trại và nông hộ chăn nuôi trâu sinh sản, trâu thịt đạt hiệu quả kinh tế cao hơn chăn nuôi truyền thống của địa phương. Sau gần ba năm triển khai, dự án đã mang lại những hiệu quả tích cực về kinh tế, xã hội.

Mô hình chăn nuôi trâu của dự án tại xã Lùng Phình, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.

Tiềm năng phát triển chăn nuôi trâu tại Lào Cai

Lào Cai nằm giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, có vị trí địa lý thuận lợi trong phát triển kinh tế – xã hội. Khí hậu của tỉnh thuận lợi cho phát triển nông/lâm nghiệp, thuỷ sản, đặc biệt là nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Nghề chăn nuôi đại gia súc và gia cầm phát triển tương đối ổn định tại Lào Cai, với hơn 87.000 hộ chăn nuôi, chủ yếu là các giống bản địa. Sản xuất chăn nuôi đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, một phần xuất bán ra ngoài tỉnh.

Trâu Việt Nam (trâu nội) hay còn gọi là trâu địa phương ở nước ta có tầm vóc nhỏ, khối lượng thấp, sinh trưởng chậm và thành thục muộn. Trâu đực trưởng thành nặng 400-450kg/con và 300-350kg/con đối với trâu cái. Tỷ lệ thịt xẻ 43-45%, thịt dai. Vì vậy, trâu Murrah được nhập về Việt Nam để lai với trâu địa phương, nhằm cải tạo đàn trâu theo hướng sữa, thịt. Trâu lai không chỉ cho năng suất thịt cao hơn 15-25% so với trâu nội, thành thục sớm mà còn mắn đẻ hơn, tỷ lệ sữa cao hơn. Thịt trâu lai cũng được nhiều người ưa chuộng vì giá trị dinh dưỡng cao; chất lượng thịt ngon, mềm, có hương vị đặc trưng và tính mát.

Giống như nhiều tỉnh miền núi khác, trâu ở Lào Cai chủ yếu vẫn chăn thả quảng canh, việc sản xuất, chế biến và dự trữ thức ăn cho trâu, nhất là trong những tháng mùa đông còn rất hạn chế. Người dân chưa được tiếp cận với công nghệ trồng và ủ chua cỏ VA06 để nuôi trâu. Chăn nuôi trâu ở Lào Cai chủ yếu trong nông hộ phân tán, nhỏ lẻ, thiếu kỹ thuật, suy thoái, giống biểu hiện rõ rệt, thiếu thức ăn, sinh sản kém, chết rét và dịch bệnh nhiều. Vì vậy, công tác lai trâu Murrah với trâu nội được tỉnh quan tâm đẩy mạnh, nhằm phát huy ưu thế lai, tạo con lai có năng suất, chất lượng thịt cao hơn so với trâu địa phương; đồng thời khai thác thế mạnh và tiềm năng sẵn có, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và du lịch, tiến tới xuất khẩu.

Phát triển bền vững đàn trâu theo chuỗi giá trị

Thực hiện định hướng nêu trên, dự án “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sinh sản và trồng, chế biến cây thức ăn chăn nuôi nhằm phát triển bền vững đàn trâu hàng hoá theo chuỗi giá trị tại tỉnh Lào Cai” thuộc Chương trình: “ Hỗ trợ ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi và vùng dân tộc thiểu số” giai đoạn 2016-2025 đã được triển khai. Đơn vị chủ trì dự án là Công ty TNHH MTV Xây lắp & Thương mại Nguyễn Vũ. Sau hơn 3 năm thực hiện, dự án đã xây dựng được mô hình mẫu để nhân rộng tại Lào Cai và các tỉnh lân cận; tăng tỷ lệ trâu lai, tăng khả năng sinh trưởng, sinh sản và tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi trâu; góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Lào Cai nói riêng và cả nước nói chung.

Vùng triển khai dự án là huyện Bắc Hà có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế mậu biên trong giao lưu với Vân Nam, Trung Quốc. Đồng thời, nơi đây có diện tích đất nông nghiệp gần 34.000 ha, phù hợp để phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc. Mô hình trang trại của dự án được xây dựng tại xã Lùng Phình với chuồng trại, đồng cỏ… đã có sẵn, được xây dựng từ năm 2015 (đủ điều kiện chăn nuôi 200 con trâu).

Dự án đã tuyển chọn 100 trâu cái sinh sản đủ tiêu chuẩn để đưa vào phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo tinh trâu Murrah đông lạnh dạng cọng rạ. Ngoài ra, dự án cũng xây dựng mô hình nuôi trâu lai lấy thịt tập trung. 115 nghé lai F1 sinh ra và được nuôi đến 14-15 tháng tuổi, sau đó đưa vào vỗ béo trong 3-4 tháng. Khẩu phần vỗ béo dựa trên nguồn thức ăn có sẵn tại địa phương. Nghé và trâu lai không chỉ được cân/đo khối lượng, theo dõi khả năng sinh trưởng thường xuyên, mà chuồng trại cũng được cải tạo và đầu tư đủ vật tư và trang thiết bị phục vụ chăm sóc đàn trâu. Bên cạnh đó, dự án còn xây dựng mô hình nuôi trâu lai lấy thịt phân tán. Trâu lai F1 được phân tán tới 25 hộ dân trong các xã: Lùng Phình, Cốc Lầu, Tà Chải, La Hối của huyện Bắc Hà. Từ đó, đánh giá được những phẩm chất của giống lai khi chăn nuôi tại các hộ dân. Mô hình trồng cây thức ăn gia súc ở trại tập trung hay trong các hộ dân cũng được quy hoạch và chú trọng, với các giống cỏ năng suất cao như VA06, Mullato, Hamill.

Sau hơn 3 năm triển khai, dự án đã đạt được những kết quả cụ thể, gắn với từng mục tiêu đã đề ra. 6 quy trình công nghệ đã được chuyển giao cho 10 cán bộ kỹ thuật. Dự án đã tập huấn cho 100 nông dân về kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc và quản lý theo dõi phối giống cho trâu cái sinh sản; kỹ thuật chăn nuôi nghé con; giúp nâng cao nhận thức, thay đổi tập quán chăn nuôi trâu của người dân. Nghé lai F1 có khối lượng sơ sinh tăng hơn 20-25% so với nghé nội. 115 nghé lai F1 được vỗ béo thành công, đảm bảo tăng trọng tuyệt đối (đạt 600g/con/ngày). Tổng khối lượng thịt hơi sản xuất của mô hình đạt 6.210 kg, tỷ lệ thịt xẻ cao hơn 5-6%, cải thiện đáng kể hiệu quả của chăn nuôi trâu thịt. Thương hiệu thịt trâu lai Bắc Hà, Lào Cai được xây dựng, đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, có chiến lược thị trường dựa trên tiềm năng phát triển và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thịt trâu trong và ngoài tỉnh.

Dự án đã trồng thành công 5 ha cỏ (giống VA06, Mulat và Hamill), năng suất xanh đạt 200-250 tấn/ha/năm, phục vụ nuôi 100 trâu cái sinh sản và vỗ béo 115 trâu lai F1 tại trang trại; cung cấp 150 tấn cỏ VA06 ủ dự trữ cho vụ đông, có chất lượng tốt, không bị thối, mốc, đảm bảo chất lượng.

Kết quả thành công của dự án cũng đã khẳng định tính hiệu quả về môi trường. Qua việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, mô hình chăn nuôi trâu có hệ thống xử lý chất thải rắn, chất thải lỏng qua hệ thống biogas tại mô hình tập trung và xử lý chất thải rắn trong chăn nuôi thành phân hữu cơ tại các hộ chăn nuôi mô hình phân tán. Việc sử dụng công nghệ ủ chua thức ăn xanh dự trữ cho trâu đã tận dụng được phế phụ phẩm trong nông nghiệp cho chăn nuôi trâu. Từ đó giúp giảm việc đốt, bỏ các sản phẩm này trong trồng trọt, giảm bớt việc ô nhiễn môi trường do việc đốt các nguyên liệu này trong sản xuất nông nghiệp.

Thành công của dự án đã giúp chuỗi giá trị sản xuất trâu hàng hoá tại Lào Cai được xây dựng từ khâu chọn giống – chăm sóc nuôi dưỡng – vỗ béo – giết thịt – đóng gói sản phẩm – bán cho người tiêu dùng. Từ đó, tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống cho người nuôi trâu; giúp chuyển dịch cơ cấu vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương; góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Lào Cai nói riêng và cả nước nói chung.

PT

Máy tính lượng tử, cơ hội và thách thức đối với an toàn an ninh

PGS.TS Phạm Thanh Giang

Viện Công nghệ Thông tin, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam

Công nghệ về máy tính lượng tử được dự báo sẽ tạo ra các thay đổi có tính cách mạng với các ngành công nghiệp hiện nay và tác động đáng kể đến xã hội trải rộng trên nhiều lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, khám phá thuốc, tài chính, tối ưu hóa. Tuy nhiên, sức mạnh của máy tính lượng tử cũng dẫn đến các vấn đề của mật mã học. Nhiều thuật toán mã hóa hiện nay trở nên không đảm bảo an toàn với sự xuất hiện của máy tính lượng tử. Từ đó một loạt vấn đề của hệ thống mật mã, chữ ký số sẽ phải được định hình lại.

Một số máy tính được IBM và Google giới thiệu gần đây.

Tính chất của lượng tử

Hiện nay, lý thuyết cơ học lượng tử dẫn dắn bởi Bohr được coi là chính thống. Các nhà khoa học vẫn đang thúc đẩy nhiều nghiên cứu về lý thuyết cũng như thực nghiệm, nhằm bổ sung và đưa ra nhiều quan điểm mới về cơ học lượng tử. Dưới đây là một số đặc điểm độc đáo trong thế giới lượng tử và những “nghịch lý” mang tính triết học:

Nguyên lý siêu vị trí: Một hệ lượng tử có thể tồn tại trong nhiều trạng thái cùng một lúc. Vấn đề tính xác định của thế giới vật lý.

Nguyên lý rối lượng tử: Hai hoặc nhiều hạt lượng tử có thể trở nên rối với nhau, nghĩa là trạng thái của một hạt sẽ ảnh hưởng đến trạng thái của các hạt khác bất kể khoảng cách của chúng. Vấn đề tính nhân quả, thông tin có thể truyền nhanh hơn vận tốc ánh sáng.

Nguyên lý bất định Heisenberg: Không thể xác định đồng thời cả vị trí và động lượng của một hạt lượng tử với độ chính xác tuyệt đối. Vấn đề xác định bản chất của thực tại.

Nguyên lý đo lường: Khi đo lường một trạng thái lượng tử, nó sẽ “sụp đổ” thành một trong những trạng thái có thể quan sát được. Vấn đề tính khách quan, thực tại phụ thuộc người quan sát.

Điện toán lượng tử là lĩnh vực nghiên cứu nhằm ứng dụng công nghệ máy tính dựa trên các đặc tính và hành vi của vật chất và năng lượng ở cấp độ lượng tử. Điện toán lượng tử được khởi đầu bởi Richard Feynman vào năm 1982, tuy nhiên, việc xây dựng các máy tính lượng tử là quá phức tạp ở thời điểm đó. Đến năm 1994, Peter Shor đề xuất thuật toán lượng tử để phân tích thừa có độ phức tạp đa thức. Thuật toán này vượt trội so với thuật toán có độ phức tạp hàm mũ hoạt động trên máy tính truyền thống, do đó thúc đẩy một loạt các nghiên cứu và thực nghiệm trong việc chế tạo máy tính lượng tử và xây dựng các thuật toán lượng tử khác.

So sánh bit truyền thống và qubit.

Khác với máy tính cổ điển, bit sử dụng biểu diễn dữ liệu chỉ có một trạng thái duy nhất là 0 hoặc 1, máy tính lượng tử sử dụng qubit, trong đó qubit tồn tại ở trạng thái siêu vị trí. Điều đó có nghĩa là qubit có thể đồng thời tồn tại trong trạng thái 0 hoặc trạng thái 1 hoặc bất kỳ tổ hợp nào của hai trạng thái. Đây là cơ sở cho khả năng tính toán song song của máy tính lượng tử. Khi hai qubit trở nên rối, trạng thái của qubit này sẽ ảnh hưởng đến trạng thái của qubit kia, bất kể khoảng cách giữa chúng. Rối lượng tử là cơ sở cho việc xây dựng bộ xử lý với các cổng chuyển trạng thái lượng tử hoặc truyền thông tin lượng tử với thời gian tức thời.

Tuy vậy, sự song song của tính toán lượng tử không giống với song song của máy tính truyền thống. Mặc dù một qubit lượng tử có thể được đặt ở vô số trạng thái chồng chất, nhưng chỉ có thể trích xuất một trạng thái thông tin duy nhất khi thực hiện phép đo. Khi tiến hành đo, trạng thái chồng chất lượng tử sẽ “sụp đổ” thành một trạng thái duy nhất. Điều đó có nghĩa là tất cả các kết quả tính toán khác sẽ bị bỏ qua. Điều này khác với mô hình tính toán song song của máy tính truyền thống, có thể cho ra toàn bộ các kết quả đầu ra. Do vậy, máy tính lượng tử chỉ thực sự hiệu quả trong các thuật toán lượng tử phù hợp.

Cơ hội và thách thức với an toàn an ninh

Những tiến bộ trong công nghệ lượng tử có khả năng định hình lại các ngành công nghệ do khả năng tăng năng lực tính toán theo cấp số nhân với việc tăng tuyến tính kích thước hệ thống lượng tử. Máy tính lượng tử hứa hẹn cung cấp năng lực tính toán gấp hàng tỷ lần các siêu máy tính hiện nay. Nhờ đó, có thể giúp chúng ta có công cụ mạnh mẽ để giải quyết nhiều bài toán lớn như trí tuệ nhân tạo, dự báo thời tiết, các bài toán sinh học, vật liệu mới.

Cơ hội

Điện toán lượng tử: Cơ hội đầu tiên là máy tính lượng tử có thể vượt trội hơn các siêu máy tính cổ điển tiên tiến nhất trong việc giải quyết một vấn đề cụ thể. Điện toán lượng tử sẵn sàng đẩy nhanh những khám phá và đổi mới khoa học trong các lĩnh vực như khoa học vật liệu, khám phá thuốc và mô hình khí hậu.

Học máy lượng tử: Điện toán lượng tử và trí tuệ nhân tạo cổ điển có thể hợp nhất để tạo ra các thuật toán học máy nâng cao lượng tử. Học máy lượng tử tận dụng tính song song và vướng víu lượng tử để xử lý và phân tích các tập dữ liệu phức tạp hiệu quả hơn. Các thuật toán lượng tử, chẳng hạn như Máy vectơ hỗ trợ lượng tử (QSVM) và Mạng thần kinh lượng tử (QNN), mang lại những lợi thế tiềm năng cho các nhiệm vụ như phân cụm dữ liệu, nhận dạng mẫu và tối ưu hóa. Học máy lượng tử hứa hẹn sẽ mở ra những hiểu biết sâu sắc từ dữ liệu lớn và thúc đẩy các ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Tối ưu hóa tài chính và đầu tư: Điện toán lượng tử có khả năng trong việc giải quyết các vấn đề tối ưu hóa phức tạp một cách hiệu quả. Điều này rất có ý nghĩa đối với việc quản lý chuỗi cung ứng, hậu cần và phân bổ nguồn lực. Điện toán lượng tử còn có thể biến đổi thế giới tài chính bằng cách cung cấp các giải pháp nhanh hơn và chính xác hơn cho việc tối ưu hóa danh mục đầu tư và các mô hình tài chính phức tạp. Các thuật toán lượng tử, như ước tính biên độ lượng tử (Quantum Amplitude Estimation – QAE) và ước tính giá trị số ít lượng tử (Quantum Singular Value Estimation – QSVE), có thể được áp dụng cho các nhiệm vụ như phân tích rủi ro, định giá quyền chọn.

Thách thức

Tuy có nhiều ưu thế, nhưng hiện tại vẫn còn rất nhiều thách thức để máy tính lượng tử có thể thực sự được triển khai trong các bài toán thực tế.

Lỗi lượng tử: Máy tính lượng tử rất nhạy cảm với nhiệt độ, nhiễu và tương tác môi trường. Máy tính cổ điển dễ bị đảo bit (trạng thái 0 có thể trở thành 1 và ngược lại). Qubit không những bị đảo bit, mà còn có khả năng bị lỗi pha. Việc kiểm tra tại các khâu trung gian là rất khó khăn vì sẽ làm cho giá trị lượng tử bị sụp đổ hoặc bị chuyển trạng thái. Để có thể mở rộng bộ xử lý lượng tử, tăng số lượng qubit yêu cầu các kỹ thuật sửa lỗi lượng tử phức tạp. Khi số lượng qubit tăng lên, việc duy trì sự gắn kết lượng tử cũng đòi hỏi các kỹ thuật phức tạp. Để giữ được sự kết hợp lâu dài, các qubit không chỉ cần được cách ly mà còn phải được giữ ở gần nhiệt độ không tuyệt đối. Thuật toán sửa lỗi lượng tử tốt nhất hiện nay do Microsoft và Quantinuum công bố năm 2024, cho phép thu được khoảng 4 qubit tin cậy từ 30 qubit vật lý. Như vậy, chi phí về qubit sửa lỗi là rất lớn so với bit sửa lỗi truyền thống.

Kết nối lượng tử và mạng lượng tử: Kết nối các qubit trên khoảng cách xa trong khi vẫn giữ được sự vướng víu của chúng là một thách thức, yêu cầu các công nghệ, kỹ thuật phức tạp. Hiện nay, việc sử dụng kỹ thuật rối lượng tử để truyền khoảng các xa mới chỉ dừng ở mức thử nghiệm.

Thuật toán lượng tử: Để được hưởng lợi từ khả năng tính toán song song lượng tử đòi hỏi phải có các thuật toán lượng tử phù hợp. Các thuật toán lượng tử bản chất phải hoạt động dựa trên tính xác suất. Tichy đã chỉ ra việc thử và sai để đo lường và xác minh câu trả lời đúng làm suy yếu lợi thế về tốc độ tính toán lượng tử (Tichy 2017).

Mật mã và an ninh mạng

Năng lực tính toán vượt trội của máy tính lượng tử cũng là áp lực ngược lại cho các hệ thống an toàn bảo mật hiện nay, khi độ an toàn chủ yếu dựa trên sự hạn chế năng lực tính toán của hệ thống máy tính hiện tại. Phần lớn các hệ mật mã, chữ ký số hiện nay phát triển trên nền tảng thuật toán RSA hoặc mật mã đường cong Elliptic (ECC), trong đó độ an toàn dựa trên sự phức tạp hàm mũ của bài toán phân tích thừa số nguyên tố lớn. Tuy nhiên, thuật toán lượng tử Shor cho khả năng giải bài toán phân tích thừa số với độ phức tạp đa thức. Điều đó dẫn đến máy tính lượng tử có khả năng phá vỡ các hệ thống mã hóa truyền thống, gây ra lo ngại về tính bảo mật của dữ liệu nhạy cảm. Việc đảm bảo các thuật toán mã hóa an toàn trước kỷ nguyên lượng tử là rất quan trọng đối với vấn đề an toàn thông tin liên lạc, bảo vệ thông tin cá nhân.

Ngoài ra, khi điện toán lượng tử phát triển, có nguy cơ mở rộng khoảng cách công nghệ giữa các quốc gia và tổ chức. Việc tiếp cận các công nghệ lượng tử tiên tiến và khả năng khai thác năng lực lượng tử cho các ứng dụng khác nhau có thể trở thành vấn đề có ý nghĩa kinh tế và địa chính trị.

Một số đề xuất và kiến nghị

Lập kế hoạch chuyển đổi tiêu chuẩn mã hóa hậu lượng tử

Nguy cơ tấn công “thu thập ngay, giải mã sau” (“harvest now, decrypt later”) là hiện hữu khi kỷ nguyên máy tính lượng tử đang đến gần. Ngày 21/08/2023, Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) và Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kỳ (NIST) đã ra thông cáo kêu gọi các tổ chức, đặc biệt là những tổ chức quản lý cơ sở hạ tầng quan trọng cần sớm lập kế hoạch cho việc chuyển đổi sang các tiêu chuẩn mật mã hậu lượng tử. Nhiều quốc gia ở châu Âu, Trung Quốc hay Singapore ở Đông Nam Á đang lên kế hoạch xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin có khả năng kháng lượng tử. Để tránh việc tin tặc thu thập dữ liệu mã hóa và giải mã trong tương lai, Việt Nam cũng cần sớm lên kế hoạch cho việc chuyển đổi và áp dụng các tiêu chuẩn mã hóa hậu lượng tử.

Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng mã hóa hậu lượng tử

Ở Việt Nam, một số đơn vị đã áp dụng giải pháp sử dụng mật mã kháng lượng tử như Trios. Trios là hệ thống cung cấp dịch vụ mã hóa E2EE cho các loại dữ liệu tin nhắn, file, thoại. Hệ thống được thiết kế để có thể triển khai giao thức PQXDH (Post Quantum Extended Diffie Hellman). Tương tự X25519Kyber768, giao thức PQXDH tạo ra một khóa chung dựa trên sự kết hợp của cả hai khóa đường cong elliptic X25519 và mã hậu lượng tử được đề xuất của NIST Kyber hoặc NTRU cho phép bảo vệ trước các cuộc tấn công của cả máy tính lượng tử và máy tính truyền thống.

Hiện nay, ở Việt Nam không nhiều cơ quan, đơn vị quan tâm đến việc tích hợp mã hóa hậu lượng tử do việc phức tạp và chưa phổ biến về công nghệ, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, đơn vị ứng dụng mã hóa hậu lượng tử trong các sản phẩm an toàn, bảo mật.

Đầu tư cho nghiên cứu về máy tính lượng tử

Nhiều quốc gia trên thế giới, các tập đoàn công nghệ đang bước vào cuộc đua để dành ưu thế trong kỷ nguyên máy tính lượng tử. Tham gia vào cuộc đua chế tạo máy tính lượng tử có lẽ là vượt quá khả năng về nguồn lực tài chính và trình độ nhân lực, nền tảng công nghệ hiện tại của Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta có thể tham gia các vào công đoạn trong việc hình thành và triển khai máy tính lượng tử.

Thứ nhất, nghiên cứu để giải quyết các bài toán về vật lý lượng tử. Vật lý lượng tử có cơ sở là vật lý lý thuyết với các mô hình toán học hoàn toàn phù hợp với năng lực và nguồn lực nghiên cứu của Việt Nam. Hiện có khá nhiều nhóm nghiên cứu mạnh đang tham gia lĩnh vực này.

Thứ hai, nghiên cứu về các thuật toán lượng tử. Máy tính lượng tử chỉ phát huy được sức mạnh khi có các thuật toán lượng tử phù hợp. Hiện nay, vẫn chưa có nhiều thuật toán chứng minh được khả năng vượt trội như thuật toán Shor. Con người Việt Nam với nền tảng tốt về toán học và tin học, hoàn toàn đủ khả năng tham gia nghiên cứu phát triển các thuật toán lượng tử trong tương lai.

Đào tạo nguồn nhân lực

Máy tính lượng tử đòi hỏi việc thay đổi về tư duy lập trình, kiến trúc hệ thống so với máy tính truyền thống. Hiện một số đơn vị nghiên cứu, trường đại học có tổ chức một số khóa đào tạo ngắn hạn về lập trình lượng tử dựa trên nền tảng IBM quantum computing, sử dụng ngôn ngữ lập trình lượng tử Qiskit (IBM2024) hoặc Google Cirq. Tuy các nền tảng này còn nhiều hạn chế như sai số và số lượng qubit nhỏ nhưng qua đó người học có thể hiểu về nguyên lý máy tính lượng tử và thử nghiệm các bài toán dựa trên các thuật toán lượng tử.  Để Việt Nam có thể sẵn sàng nguồn nhân lực cho kỷ nguyên máy tính lượng tử, tăng khả năng trong việc nắm bắt các cơ hội và cũng như đối mặt với các thách thức khi máy tính lượng tử trở nên hiện thực, chúng ta cần xây dựng hệ thống đào tạo bài bản hơn về cả phần cứng và phần mềm lượng tử như là một môn học hay ngành học trong trường đại học.

*

*      *

Điện toán lượng tử sẽ mang đến các cơ hội khám phá khoa học, quản lý tài nguyên được tối ưu hóa và xử lý dữ liệu nâng cao. Nhưng cũng đặt ra những cân nhắc về mặt đạo đức đòi hỏi phải xem xét cẩn thận và phát triển có trách nhiệm. Bên cạnh đó, điện toán lượng tử cũng mang đến những thách thức lớn về an toàn, an ninh thông tin, đặc biệt gây ảnh hưởng đến hệ thống chữ ký số quốc gia. Do đó, đòi hỏi việc nghiên cứu và chuyển dịch sang mật mã hậu lượng tử cần có sự quan tâm ở mức độ quốc gia. Khi chúng ta hướng tới một tương lai máy tính lượng tử, nỗ lực hợp tác giữa các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, ngành công nghiệp và công chúng là quan trọng để đảm bảo sự phát triển và sử dụng công nghệ lượng tử một cách có trách nhiệm và công bằng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.H. Bennett, G. Brassard (1984) “Quantum cryptography: Public key distribution, and coin-tossing”, 1984 IEEE International Conference on ComputersSystems, and Signal Processing560, pp.175-179.

2. L. Grover (1996) “A fast quantum mechanical algorithm for database search”, Bell Labs, New Jersey, Tech.

3. S. Gill, S. Singh, A. Kumar, el al. (2022), “Quantum computing: A taxonomy, systematic review and future directions”, Software: Practice and Experience52, DOI: 10.1002/SPE.3039ISBN: 0038-0644.

4. Chrome (2024), “X25519Kyber768 key encapsulation for TLS”,  truy cập ngày 20/07/2024.

5. E. Kret, R. Schmidt (2024), “The PQXDH key agreement protocol”, truy cập ngày 20/07/2024.

Việt Nam và Vương quốc Anh mở rộng hợp tác trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và công nghệ cao

Cuộc gặp giữa Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Bùi Thế Duy và Thị trưởng London Michael Mainelli đã mở ra những cơ hội hợp tác mới với nhiều triển vọng giữa Việt Nam và Vương quốc Anh trong các lĩnh vực. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác, đặc biệt trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ cao và đổi mới sáng tạo, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Chiều 17/9/2024, tại trụ sở Bộ KH&CN, Thứ trưởng Bùi Thế Duy đã có buổi làm việc với ông Michael Mainelli, Thị trưởng London. Cuộc gặp nhằm thảo luận về các cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Vương quốc Anh trong các lĩnh vực trọng tâm như nông nghiệp, AI, công nghệ y tế, bán dẫn và hàng không vũ trụ.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy tiếp Thị trưởng London Michael Mainelli.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy đã thông báo về kết quả chuyến công tác gần đây của Bộ KH&CN tại Vương quốc Anh, trong đó có buổi làm việc với Bộ Khoa học, Đổi mới sáng tạo và Công nghệ (DSIT) cùng các đối tác quan trọng. Chuyến thăm đã mở ra nhiều cơ hội mới cho hợp tác song phương, đặc biệt trong việc chuyển giao công nghệ và thúc đẩy nghiên cứu khoa học chung giữa hai quốc gia. Các thỏa thuận ban đầu đã được thiết lập với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và công ty công nghệ lớn của Anh, hướng tới sự hợp tác lâu dài và toàn diện.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng nhấn mạnh sự cần thiết trong việc phát triển các dự án hợp tác tập trung vào lĩnh vực AI mà cả hai quốc gia đều có tiềm năng. Ông bày tỏ mong muốn Vương quốc Anh sẽ tiếp tục hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam thông qua các kênh ngoại giao và tài trợ cho các dự án nghiên cứu chung, từ đó tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các ngành công nghiệp chiến lược của Việt Nam.
Toàn cảnh buổi làm việc.
Tại buổi làm việc, Thị trưởng London Michael Mainelli đã chia sẻ về vai trò của London với vị trí là một trung tâm tài chính quốc tế, dẫn đầu về AI và đổi mới sáng tạo. Ông nhấn mạnh việc thúc đẩy quan hệ đối tác công nghệ giữa Việt Nam và London, đặc biệt là trong lĩnh vực AI. Thị trưởng cũng cam kết sẽ hỗ trợ Việt Nam trong phát triển các dự án về công nghệ và tài chính, bao gồm việc xây dựng trung tâm kinh tế tài chính quốc tế (IFC) tại TP. Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Thị trưởng Michael Mainelli cũng nêu bật vai trò của giáo dục trong hợp tác giữa hai quốc gia, đặc biệt là mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa các trường đại học tại Vương quốc Anh và Việt Nam. Ông đã ký Biên bản ghi nhớ với Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV), đồng thời đề xuất chương trình học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Vương quốc Anh học tập trong lĩnh vực tài chính và dịch vụ chuyên nghiệp.
Cuộc gặp gỡ đã mở ra nhiều triển vọng mới cho sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và London trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, tài chính, giáo dục và đổi mới sáng tạo.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm. 

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác quốc tế

Việt Nam tham dự Khóa họp lần thứ 68 Đại hội đồng Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế

Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 16-18/9/2024, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Lê Xuân Định đã dẫn đầu Đoàn Việt Nam tham dự Khóa họp lần thứ 68 Đại hội đồng Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Cùng tham gia Đoàn đại biểu có Đại sứ quán Việt Nam tại Áo và Lãnh đạo, cán bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN.
Đoàn Việt Nam tham dự Khóa họp lần thứ 68 Đại hội đồng IAEA.
Phiên họp thường niên lần thứ 68 của Đại hội đồng IAEA được tổ chức tại Trung tâm Quốc tế Vienna (VIC) ở Vienna, Áo –  nơi các quan chức cấp cao và đại diện đến từ 178 quốc gia thành viên IAEA chia sẻ và trao đổi thông tin liên quan đến vai trò phát triển khoa học, công nghệ và thúc đẩy ứng dụng hạt nhân; vấn đề bảo đảm an toàn và an ninh hạt nhân; nâng cao hiệu quả của các hoạt động thanh sát hạt nhân…
Tại Lễ khai mạc Hội nghị toàn thể ngày 16/9/2024, Tổng Giám đốc IAEA Rafael Mariano Grossi đã nhấn mạnh những ưu tiên hàng đầu của IAEA. Ông cho biết, IAEA tập trung vào việc củng cố và ngăn chặn sự suy thoái của cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân, cơ chế này đã góp phần duy trì hòa bình và an ninh toàn cầu suốt hơn nửa thế kỷ. Bên cạnh đó, IAEA cũng giải quyết các mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu và những bất công kéo dài liên quan đến nghèo đói và bệnh tật.
Ông Rafael Mariano Grossi, Tổng Giám đốc IAEA phát biểu tại Phiên toàn thể.
Phát biểu tại Phiên toàn thể, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định chúc mừng ông Sang Wook Ham được bầu làm Chủ tịch Đại hội đồng lần thứ 68 của IAEA và đánh giá cao những nỗ lực và thành tựu của IAEA trong việc thúc đẩy năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Thứ trưởng khẳng định cam kết của Việt Nam đối với việc ứng dụng công nghệ hạt nhân vì sự phát triển bền vững và giải quyết các thách thức toàn cầu thông qua các sáng kiến của IAEA, như dự án ZODIAC (kiểm soát bệnh truyền nhiễm lây từ động vật sang người, NUTEC Plastic (quan trắc và giảm thiểu vi nhựa trong đại dương), Atoms4Food (tăng cường sản xuất lương thực và an toàn thực phẩm) và Rays of Hope (kiểm soát và giảm thiểu ung thư). Sự hỗ trợ của IAEA đối với Dự án lò phản ứng nghiên cứu mới của Việt Nam và ứng dụng năng lượng hạt nhân trong các lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, công nghiệp, và bảo vệ môi trường là vô cùng quan trọng. IAEA hỗ trợ Việt Nam trong an ninh hạt nhân, bao gồm lắp đặt hệ thống giám sát bức xạ và phát triển các hoạt động phòng ngừa liên quan đến vật liệu hạt nhân. Việt Nam hiện vận hành lò phản ứng nghiên cứu tại Đà Lạt và đang xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân với lò phản ứng nghiên cứu mới, củng cố cam kết của Việt Nam đối với việc ứng dụng năng lượng hạt nhân cho phát triển kinh tế – xã hội. Việt Nam đánh giá cao sự hỗ trợ của IAEA thông qua các dự án hợp tác kỹ thuật thúc đẩy Chương trình Phát triển an toàn Lò phản ứng. Việt Nam mong muốn nhận được sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa với IAEA trong việc tư vấn, phát triển nguồn nhân lực và nhiều lĩnh vực khác để đảm bảo thành công của dự án.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định đọc Bài phát biểu Quốc gia tại Phiên toàn thể của Khóa họp lần thứ 68 Đại hội đồng IAEA.
Quang cảnh Phiên toàn thể Hội nghị.
Cũng trong khuôn khổ Khóa họp, ngày 17/9/2024, Thứ trưởng Lê Xuân Định đã có buổi làm việc với bà Lydie Evrard, Phó Tổng giám đốc IAEA kiêm Trưởng ban An toàn và An ninh hạt nhân. Thứ trưởng bày tỏ lời cảm ơn tới IAEA nói chung và tới bà Lydie Evrard với cương vị Phó Tổng Giám đốc IAEA đã tích cực ủng hộ, hỗ trợ cho Việt Nam nhiều năm qua trong tăng cường năng lực kỹ thuật của quốc gia nhằm thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử bảo đảm an toàn, an ninh và vì mục đích hòa bình.
Trao đổi với bà Lydie Evrard, Thứ trưởng nhấn mạnh, IAEA là đối tác đặc biệt quan trọng của Việt Nam, bày tỏ vui mừng nhận thấy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và IAEA ngày càng phát triển và hiệu quả. Thông qua khuôn khổ Khung chương trình quốc gia (CPF), IAEA đã tích cực hỗ trợ Việt Nam thông qua các dự án hợp tác kỹ thuật đối với dự án xây dựng lò phản ứng nghiên cứu mới và đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên tử trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp, bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên nước, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an toàn, an ninh.
Thứ trưởng cho biết, hiện nay Bộ KH&CN đang tích cực triển khai dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân, với lò phản ứng nghiên cứu công suất 10MW đặt tại tỉnh Đồng Nai. Đây là dự án quan trọng, dự kiến sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành năng lượng nguyên tử và ứng dụng bức xạ ở Việt Nam trong nhiều năm tới. Việt Nam đề nghị IAEA phối hợp hỗ trợ trong việc thẩm định thiết kế cơ sở của lò phản ứng và các báo cáo phân tích an toàn liên quan đến địa điểm và FS của dự án.
Bên cạnh đó, Bộ KH&CN đang được giao nhiệm vụ sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử. Những điều chỉnh và bổ sung sẽ tập trung vào cập nhật các chính sách và quy định liên quan đến việc nội luật hóa các điều ước quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân mà Việt Nam đã ký kết. Đồng thời, Bộ KH&CN cũng đề nghị IAEA tiếp tục hỗ trợ tích cực cho Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược theo “Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” sau khi được phê duyệt.
Trong lĩnh vực an ninh hạt nhân, Việt Nam trân trọng sự trợ giúp của IAEA nhiều năm qua đã góp phần quan trọng trong tăng cường năng lực và hoàn thiện thể chế quốc gia về an ninh hạt nhân. Hỗ trợ này bao gồm việc lắp đặt hệ thống Cổng giám sát phóng xạ (RPM) tại các sân bay quốc tế và việc thực hiện Phái đoàn Đánh giá an ninh hạt nhân quốc tế (INSServ) tại Việt Nam (tháng 3/2023), rà soát cập nhật bản Kế hoạch an ninh hạt nhân bền vững tích hợp (INSSP) (tháng 11/2024), đã giúp xác định các nhu cầu cụ thể và các hoạt động trong tương lai để hỗ trợ việc phát hiện, ngăn chặn và ứng phó với các hành vi trái phép liên quan đến các vật liệu nằm ngoài kiểm soát pháp quy (MORC). Việt Nam đề nghị IAEA tiếp tục hỗ trợ triển khai Kế hoạch hành động thực hiện INSSP giai đoạn 2024-2027 và cam kết tiếp tục phối hợp với Ban Thanh sát hạt nhân IAEA tiến hành các hoạt động thanh sát hạt nhân trong khuôn khổ Hiệp định thanh sát hạt nhân toàn diện (CSA) và Nghị định thư bổ sung (AP).
Thứ trưởng đề nghị IAEA tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong khai thác phương pháp luận và các công cụ của Dự án quốc tế về đổi mới các lò phản ứng hạt nhân và các chu trình nhiên liệu (INPRO) cho nghiên cứu đề xuất kế hoạch sử dụng bền vững năng lượng hạt nhân.
Phó Tổng Giám đốc Lydie Evrard chia sẻ các ý kiến của Thứ trưởng, khẳng định IAEA luôn sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong hoạt động phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử, bảo đảm an toàn và an ninh, đặc biệt đối với các nhiệm vụ trọng tâm mà Việt Nam đang triển khai, đồng thời bà cũng giao các đơn vị liên quan của IAEA trực tiếp làm việc với Việt Nam để triển khai các nhiệm vụ đã có trong kế hoạch.
Đoàn Việt Nam chụp ảnh lưu niệm với Phó Tổng Giám đốc IAEA Lydie Evrard và cán bộ của IAEA.
Bên lề Khóa họp, Thứ trưởng Lê Xuân Định và Đoàn Việt Nam đã tham gia cuộc họp về hợp tác ba bên Việt Nam – IAEA – Lào/Cam-pu-chia. Ông Gashaw Wolde, Trưởng Ban Hợp tác kỹ thuật Châu Á – Thái Bình Dương 1 đã đánh giá cao nỗ lực của các bên trong triển khai thỏa thuận và các kết quả tích cực đạt được trong thời gian qua. Với vai trò là đầu mối quốc gia trong quản lý và thúc đẩy phát triển ứng dụng năng lượng phục vụ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục và đào tạo, trong thời gian qua, Bộ KH&CN đã phối hợp với IAEA triển khai nhiều dự án hợp tác kỹ thuật quốc gia. Năm 2024, Việt Nam đã và đang chuẩn bị đón 14 đoàn cán bộ của Lào và Campuchia sang tham quan kỹ thuật, thực tập với khoảng 40 lượt cán bộ. Việc mở rộng phạm vi hợp tác cho thấy sự quan tâm của các cơ quan liên quan từ cả ba nước nhằm thúc đẩy cơ chế hợp tác này. Trong khuôn khổ hợp tác ba bên Việt Nam khẳng định luôn sẵn sàng hỗ trợ hai quốc gia Lào và Campuchia phát triển cơ sở hạ tầng ứng dụng năng lượng nguyên tử trong giai đoạn tới thông qua các hoạt động đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ.
Đoàn Việt Nam tham gia cuộc họp về hợp tác ba bên Việt Nam – IAEA – Lào/Cam-pu-chia.

Nguồn: Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Năng lượng nguyên tử, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

THƯ MỜI THAM GIA TRIỂN LÃM SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 2024

THƯ MỜI THAM GIA TRIỂN LÃM

SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 2024

Ban tổ chức Triển lãm sách Khoa học và Công nghệ 2024 trân trọng kêu gọi sự tham gia của các tổ chức, đơn vị và cá nhân trong Triển lãm sách Khoa học và Công nghệ 2024 (tên gọi khác là Tuần lễ Sách Khoa học và Công nghệ), một sự kiện không chỉ đơn thuần là triển lãm sách, mà còn là nơi kết nối, giao lưu và truyền cảm hứng cho tất cả những ai yêu thích sách và đam mê khoa học.

Năm nay, sự kiện diễn ra trong không khí hân hoan chào mừng Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10). Đây là thời điểm tuyệt vời để tôn vinh những thành tựu của khoa học và công nghệ, cùng nhau nhìn lại và hướng tới tương lai, khơi dậy niềm tự hào và khát vọng sáng tạo trong mỗi chúng ta.

Triển lãm sách Khoa học và Công nghệ 2024 cũng là chuỗi hoạt động hưởng ứng Ngày Tổ chức Khoa học và Công nghệ thế giới vào ngày 10/11, với mong muốn khuyến khích sự phát triển và ứng dụng của khoa học công nghệ trong cuộc sống hàng ngày.

Chúng tôi kính mời các tổ chức tham gia để cùng nhau tạo nên một cộng đồng sáng tạo, nơi mà mỗi ý tưởng đều được chào đón và mỗi cá nhân đều có cơ hội đóng góp. Sự hiện diện của các tổ chức không chỉ làm phong phú thêm cho sự kiện, mà còn góp phần nâng cao nhận thức của công chúng về vai trò thiết yếu của khoa học và công nghệ trong thời đại 4.0.

Tại sao bạn nên tham gia?

  • Khám phá và học hỏi: Cơ hội để khám phá các tài liệu khoa học mới nhất, cùng những công nghệ tiên tiến đang định hình tương lai.
  • Giao lưu và kết nối: Kết nối với các nhà khoa học, giảng viên, và sinh viên, mở rộng mạng lưới chuyên môn và hợp tác.
  • Chia sẻ tri thức: Tham gia vào các hội thảo chuyên đề, thảo luận với các chuyên gia hàng đầu về những xu hướng và thách thức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
  • Tham gia hoạt động sáng tạo: Góp mặt trong các cuộc thi, chương trình giao lưu, và các hoạt động trải nghiệm công nghệ, nơi mà ý tưởng của bạn có thể tỏa sáng.

Lợi ích khi tham gia:

  • Miễn phí địa điểm trưng bày.
  • Hỗ trợ trang thiết bị.
  • Cơ hội quảng bá thương hiệu và kết nối với cộng đồng khoa học.

Ban tổ chức:
Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

Mục đích và yêu cầu:
Tổ chức Triển lãm Sách khoa học và công nghệ an toàn, thiết thực, hiệu quả, thu hút đông đảo các nhà khoa học, giảng viên, sinh viên và nhân dân tham gia, góp phần nâng cao nhận thức công chúng về vai trò của khoa học công nghệ nói chung, của tài liệu khoa học và công nghệ nói riêng đối với việc phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.

Nội dung và quy mô Triển lãm:

  • Nội dung: Trưng bày tài liệu khoa học và công nghệ; trang thiết bị công nghệ hiện đại.
  • Quy mô: Hơn 20 gian hàng tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
  • Thời gian: Từ ngày 09 đến 12/10/2024.

Khai mạc Triển lãm:

  • Thời gian: 8h00, ngày 10/10/2024
  • Địa điểm: Tầng 1, Cục Thông tin KH&CN quốc gia

Đầu mối liên hệ:

  • Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia

Họ và tên: Trần Thị Hải Yến. ĐT: 0975862254

  • Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

Họ và tên: Trương Yến Minh. ĐT: 0915168605

Chúng tôi mong nhận được sự quan tâm và tham gia của quý vị.
Xin chân thành cảm ơn!

‘Nghiên cứu neutrino mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam’

Tiến sĩ Cao Văn Sơn cho biết nghiên cứu neutrino (hạt ma) có thể ứng dụng trong giám sát các lò phản ứng hạt nhân hoặc khoa học vũ trụ.

Tiến sĩ Sơn hiện đảm nhiệm vai trò dẫn dắt nhóm nghiên cứu về neutrino tại Viện Khoa học và Giáo dục liên ngành (IFIRSE) thuộc Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành (ICISE), TP Quy Nhơn. Ông trở về Việt Nam năm 2022, sau 13 năm tham gia các dự án nghiên cứu quốc tế về neutrino tại Mỹ (5 năm) và Nhật Bản (8 năm).

Ông chia sẻ với VnExpress về neutrino trong lĩnh vực vật lý hạt và tiềm năng ứng dụng vào đời sống xã hội.TS Cao Văn Sơn. Ảnh: Thảo Chi

TS Cao Văn Sơn tại phòng làm việc. Ảnh: Thảo Chi

– Tại sao neutrino quan trọng trong nghiên cứu vật lý hạt, thưa ông?

– Hạt neutrino, biệt danh là “hạt ma”, là một trong những bí ẩn lớn của thế giới hạt cơ bản – những viên gạch nhỏ nhất cấu thành nên vật chất. Gọi là “ma” là bởi vì hạt này tương tác rất yếu với vật chất và gần như không để lại dấu vết nào. Một mặt đó là thách thức cho các nhà khoa học để bắt “ma” nhưng mặt khác, thông tin mà neutrino mang lại là trực tiếp và vô cùng quý giá. Nói một cách ngắn gọn, neutrino có vai trò đặc biệt trong vật lý hạt và hạt nhân, vũ trụ học và thiên văn học và những tiến bộ trong khoa học neutrino có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực khác.

– Ông bắt đầu nghiên cứu neutrino từ khi nào?

– Tôi bắt đầu nghiên cứu hạt neutrino từ năm 2008 tại Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội. Luận văn tốt nghiệp đại học của tôi là về hạt neutrino. Từ 2009-2014, tôi du học sang Mỹ theo chương trình của VEF (Vietnam Education Foundation) và tham gia thí nghiệm quốc tế về neutrino ở Mỹ, có tên là MINOS.

Tháng 6/2014, tôi tốt nghiệp tại Mỹ và sau đó chuyển sang Nhật Bản. Thời gian này tôi làm việc cả ở Mỹ và Nhật. Trong 8 năm tại Nhật Bản (2014-2022), tôi nghiên cứu khả năng vật lý của thí nghiệm Tokai to Kamioka (T2K) trong việc tìm kiếm vi phạm đối xứng CP. Đây là tiền đề để thuyết phục việc thu thập thêm số liệu đến năm 2027.

Từ 2016 đến nay, tôi tham gia phát triển hệ giám sát chùm tia proton kiểu mới và phụ trách một hệ thống máy giám sát mức độ mất mát của chùm proton bằng sợi quang, đồng thời thực hiện kiểm tra vi phạm đối xứng CPT với dữ liệu từ thí nghiệm. Với thí nghiệm Super-Kamiokande (SK), tôi tham gia vào việc vận hành và thu thập số liệu.

– Các dự án ông tham gia cụ thể là gì?

– Hai thí nghiệm nổi tiếng là Tokai to Kamioka (T2K) và Super-Kamiokande (SK) đặt tại Nhật Bản đóng vai trò then chốt trong việc đo các tính chất và giải mã những bí ẩn của hạt neutrino. Thí nghiệm T2K sử dụng máy gia tốc J-PARC để tăng tốc chùm tia proton năng lượng cao, cho va vào bia tương tác để tạo ra các hạt mẹ của neutrino. T2K đã là thí nghiệm đầu tiên phát hiện ra quá trình chuyển đổi 2 trạng thái neutrino khác nhau năm 2013 và nhận được giải thưởng Đột Phá năm 2016. Tiếp đến, T2K đã phát hiện dấu hiệu đầu tiên của vi phạm đối xứng CP trong hệ neutrino năm 2020, một phát hiện quan trọng có thể giải thích sự mất cân bằng giữa vật chất và phản vật chất trong vũ trụ. Thí nghiệm T2K vẫn đang tiếp tục thu thập dữ liệu để xác nhận phát hiện này.

Super-Kamiokande là một trong những máy dò neutrino lớn nhất thế giới, đã hoạt động từ năm 1996, với bể chứa 50.000 tấn nước siêu tinh khiết và hơn 11.000 ống nhân quang. Đây là công cụ chính để nghiên cứu neutrino từ nhiều nguồn khác nhau. SK đã giúp phát hiện sự dao động của neutrino, đóng góp trực tiếp cho giải thưởng Nobel Vật lý năm 2015. Hiện SK được nâng cấp và có nhiều khả năng trong thời gian tới sẽ lần đầu tiên phát hiện ra bức phông nền neutrino, tàn dư từ các vụ nổ sao trong vũ trụ. Dự kiến vào năm 2027, Hyper-Kamiokande, thế hệ tiếp theo với quy mô gấp 10 lần SK, sẽ bắt đầu hoạt động, mở ra kỷ nguyên mới trong nghiên cứu neutrino.

– Tại sao ông trở về Việt Nam và gia nhập Viện Khoa học và Giáo dục liên ngành (IFIRSE)?

– Tôi biết đến IFIRSE vào năm 2012, khi tham dự hội nghị Vietnus2012 do GS Karol Lang tổ chức ở Quy Nhơn. Lúc đó, ICISE đang xây dựng và GS Lang đã gợi ý rằng đây có thể là nơi lý tưởng để phát triển khoa học neutrino tại Việt Nam. Sau khi hoàn tất chương trình tiến sĩ ở Mỹ và làm việc tại Nhật Bản, tôi quyết định về Việt Nam và gia nhập IFIRSE năm 2022. Tôi ấn tượng với tâm huyết của GS Trần Thanh Vân và môi trường nghiên cứu độc đáo tại đây. Đây là nơi thúc đẩy nghiên cứu liên ngành, tự do học thuật, và kết nối với các nhà khoa học hàng đầu thế giới. Hiện, tôi dẫn dắt nhóm nghiên cứu về neutrino tại IFIRSE.

– Mục tiêu các dự án mà ông và cộng sự đang triển khai tại IFIRSE là gì?

– Thực hiện nhiệm vụ quốc tế, IFIRSE tham gia vào thí nghiệm T2K và SK. Trong T2K, chúng tôi thu thập dữ liệu để tăng độ nhạy và tìm kiếm vi phạm đối xứng CP. Nếu thành công, đó sẽ là một bước ngoặt quan trọng cho vật lý hiện đại. Với SK, chúng tôi hiện chủ yếu hỗ trợ vận hành. Ở cấp quốc gia, chúng tôi thực hiện dự án Nafosted nghiên cứu lý thuyết về neutrino, tìm cách dùng dữ liệu thực nghiệm để kiểm chứng và phát triển các mô hình vật lý mới. Về lâu dài, chúng tôi đang phát triển một phòng thí nghiệm tại ICISE.

Mục tiêu không chỉ phục vụ trực tiếp cho các thí nghiệm neutrino quốc tế mà còn mong muốn đưa các công nghệ tiên tiến về Việt Nam và tạo một hướng đi riêng. Chúng tôi phát triển các công nghệ ánh sáng với các cảm ứng silicon siêu nhạy và siêu nhạy. Chúng tôi cũng đang hợp tác phát triển hướng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) trên phần cứng, thí nghiệm đo và tính toán lượng tử.Nhóm nghiên cứu vật lý neutrino của IFIRSE. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Tiến sĩ Cao Văn Sơn (đầu tiên bên phải) và nhóm nghiên cứu vật lý neutrino tại IFIRSE. Ảnh: Nhân vật cung cấp

– Neutrino sẽ được ứng dụng vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội ra sao, thưa ông?

– Nghiên cứu neutrino mở ra nhiều tiềm năng ứng dụng thực tiễn và địa phương. Chúng tôi quan tâm và có các kỹ năng để phát triển hệ thống giám sát neutrino từ lò phản ứng hạt nhân. Đây là phương pháp có thể giám sát từ xa hoạt động của các lò phản ứng, giúp phân biệt giữa mục đích sản xuất điện và làm giàu uranium cho phát triển vũ khí hạt nhân. Các kỹ thuật phát hiện các tia vũ trụ với các chất nhạy sáng và các cảm ứng quang cực nhạy và nhanh có thể ứng dụng để “chụp X-quang” các cấu trúc địa chất lớn và ứng dụng trong y học hạt nhân và xạ trị.

Với Trung tâm Khám phá khoa học và Đổi mới sáng tạo, chúng tôi có thể hỗ trợ kỹ thuật và chuyên gia nhằm chuyển đổi công nghệ, phát triển các hệ đo để quan sát được tia vũ trụ, phát hiện tia gamma từ tia vũ trụ…

– Tại sao ông đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép Việt Nam tham gia thí nghiệm HK như một nhiệm vụ quốc gia?

– Tham gia thí nghiệm HK sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài của khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Đối với Bình Định, điều này giúp nâng cao vị thế khoa học của tỉnh. Đồng thời, thu hút đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ và tạo cơ hội việc làm cho nhân lực địa phương lĩnh vực khoa học kỹ thuật cao. Ở quy mô quốc gia, nó giúp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản, đặc biệt trong vật lý hạt và thiên văn học, phát triển công nghệ cao như cảm biến, xử lý dữ liệu lớn. Ngoài ra, còn giúp tăng cường hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng khoa học thế giới, đồng thời đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

– Ông có lời khuyên gì dành cho các nhà khoa học trẻ?

– Khoa học không bao giờ lạc hậu. Trong thời đại AI, kiến thức cơ bản ngày càng quan trọng để đánh giá thông tin chính xác hay là không. Đừng ngại theo đuổi ngành STEM để mở ra cơ hội du học và phát triển sự nghiệp quốc tế. Xem khoa học như “thẻ xanh” toàn cầu, mở ra cơ hội làm việc, học tập với các nhà khoa học hàng đầu.

Nhiều bạn trẻ lo lắng về tài chính khi theo đuổi con đường khoa học. Tuy vậy, mình muốn nhắc lại câu nói của Steve Jobs, nhà sáng lập Apple: “Hãy cứ khát khao, hãy cứ khờ dại”. Con đường khoa học có thể gian nan nhưng rất ý nghĩa. Tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ các bạn trẻ trong hành trình khoa học của mình.

Thảo Chi

Địa phương phân loại rác theo hạ tầng hiện có

Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định bắt buộc phân loại rác tại nguồn từ 2025, tuy nhiên các địa phương tùy tình hình thực tế sẽ triển khai ở quy mô phường, xã sau đó nhân rộng.

Sáng 16/9, hội thảo Chương trình đối tác hành động quốc gia về nhựa Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp cùng Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức, nhiều đại biểu bày tỏ quan ngại việc thực hiện phân loại rác tại nguồn theo Luật Bảo vệ môi trường 2020.

Theo luật, chậm nhất đến ngày 31/12, các địa phương phải thực hiện phân loại rác tại nguồn theo ba loại gồm, rác có khả năng tái sử dụng, tái chế; rác thực phẩm và rác sinh hoạt khác.

Bà Quách Thị Xuân, đại diện tổ chức Môi trường Thái Bình Dương Việt Nam đặt câu hỏi việc phân loại rác tại nguồn đã bắt buộc phải thực hiện từ cuối năm nay hay vẫn dừng lại ở mức khuyến khích như trước đây. Cùng lo lắng này, ông Hoàng Thành Vĩnh, đại diện UNDP bày tỏ nhiều địa phương chia sẻ không đủ nguồn lực để thực hiện thu gom, xử lý rác theo đúng ba loại như luật yêu cầu.

Trả lời thắc mắc trên, ông Hồ Kiên Trung, Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, theo luật việc phân loại rác tại nguồn là bắt buộc. Đến hết 31/12/2024 toàn bộ 63 tỉnh thành phố phải thực hiện đồng loạt việc phân loại chất thải từ các hộ gia đình và cá nhân. Tuy nhiên “việc thực hiện tại các tỉnh sẽ phải thực hiện theo lộ trình và kế hoạch để phù hợp với điều kiện hạ tầng kỹ thuật thu gom, vận chuyển và xử lý của từng địa phương”, ông Trung nói thêm.Ông Hồ Kiên Trung nói tại hội thảo sáng 16/9. Ảnh: Gia Chính

Ông Hồ Kiên Trung nói tại hội thảo sáng 16/9. Ảnh: Gia Chính

Hồi giữa tháng 8, khi Bộ Tài nguyên và Môi trường lấy ý về triển khai phân loại rác tại nguồn nhiều địa phương bày tỏ khó thực hiện. Đơn cử tại Hà Nam, kinh phí chi cho thu gom, vận chuyển xử lý và phân loại rác hiện chỉ đáp ứng được theo phương pháp hiện tại nếu như phân loại rác tại nguồn sẽ phát sinh thêm nhiều chi phí.

Cụ thể, Hà Nam mỗi ngày phát sinh 400 tấn rác, nếu sản xuất túi tự phân hủy để đựng với đơn giá 10.000 đồng một túi thì mỗi năm sẽ phát sinh 145 tỷ đồng. Trong khi đó năm 2024, toàn bộ kinh phí xử lý rác từ thu gom, vận chuyển, phân loại toàn tỉnh chỉ 210 tỷ đồng.

Mỗi ngày Việt Nam phát sinh khoảng 70.000 tấn rác thải sinh hoạt, trong đó đô thị hơn 38.000 tấn, còn lại là nông thôn. Cả nước có 340 cơ sở đốt, 30 cơ sở ủ phân hữu cơ và gần 1.200 cơ sở chôn lấp, chủ yếu không hợp vệ sinh.

Gia Chính

Nhà khoa học Việt ‘nhân bản’ giống sâm Ngọc Linh

Nhóm nhà khoa học Trung tâm Công nghệ Sinh học TP HCM nghiên cứu tạo dòng sâm Ngọc Linh thể đa bội với ưu thế lá dày, cuống lá to, cây cao hơn so với cây tự nhiên.

Nghiên cứu do thạc sĩ Phạm Văn Hiểu, Phòng công nghệ sinh học thực vật (Trung tâm Công nghệ Sinh học TP HCM) cùng bốn cộng sự khác thực hiện từ tháng 12/2021 đến tháng 6/2024. Theo nhóm nghiên cứu, sâm Ngọc Linh chứa nhiều dược chất quý như ginsenosides (khoảng 52 hợp chất saponin) và ocotillol (Majonoside R2 hay MR2) có tác dụng giúp tăng cường hệ miễn dịch và ngăn ngừa ung thư. Nguồn giống sâm Ngọc Linh sử dụng cho sản xuất hiện nay chủ yếu được thu nhận từ hạt cây trồng trong điều kiện tự nhiên với số lượng rất hạn chế.

Các nghiên cứu cho thấy cây đa bội, có nhiều hơn hai bộ nhiễm sắc thể trong tế bào, xuất hiện phổ biến ở nhiều loài thực vật, và có nhiều đặc điểm vượt trội so với cây lưỡng bội. Trong tự nhiên sâm Ngọc Linh tồn tại dạng cây lưỡng bội 2n = 24 nhiễm sắc thể (NST), sâm Ngọc Linh tứ bội được tạo ra 4n = 48 NST. Nhóm cho rằng, có nhiều nghiên cứu chứng minh, khi bộ nhiễm sắc thể tăng có thể dẫn đến tăng kích thước tế bào và cơ quan, tăng cường hoạt động trao đổi chất, dẫn đến làm tăng các hợp chất thứ cấp và tăng khả năng thích nghi với môi trường.Hình ảnh trên kính hiển vi sâm Ngọc Linh thể lưỡng bội (trái) và thể tứ bội. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Hình ảnh trên kính hiển vi sâm Ngọc Linh thể lưỡng bội (trái) và thể tứ bội. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Theo thạc sĩ Hiểu, việc áp dụng kỹ thuật đa bội để nâng cao năng suất và phẩm chất giống đã được áp dụng thành công trên nhiều loại cây trồng khác nhau. Điều này cho thấy có thể áp dụng kỹ thuật đa bội để tạo ra giống sâm Ngọc Linh có khả năng sinh trưởng và thích nghi với môi trường tốt hơn. Việc phát triển dòng sâm Ngọc Linh đa bội nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu phát triển giống cũng như sản xuất sâm Ngọc Linh trong tương lai.

Để tạo dòng Sâm Ngọc Linh đa bội, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phôi ở giai đoạn phôi cầu (phôi tạo ra từ quá trình nuôi cấy mô) làm nguyên liệu ban đầu. Phôi cầu được xử lý bằng colchicine ở nhiều nồng độ khác nhau để tìm ra nồng độ và thời gian xử lý phù hợp nhất tạo sâm Ngọc Linh thể đa bội. Sau khi xử lý, các mẫu phôi được tiếp tục nuôi cấy để tăng trưởng tạo lá. Nhóm tiến hành sàng lọc mẫu đa bội bằng phương pháp dòng chảy tế bào (flow cytometry). Các mẫu đa bội sau khi sàng lọc bằng phương pháp dòng chảy tế bào sẽ được tái sinh để tạo cây đa bội hoàn chỉnh.

Theo thạc sĩ Hiểu, trong các công đoạn trên, sàng lọc đa bội là công đoạn khó khăn nhất, do phải thực hiện với lượng lớn mẫu. Vấn đề này được nhóm giải quyết bằng máy đo dòng chảy tế bào. Máy này giúp sàng lọc lượng lớn mẫu trong thời gian ngắn.

Dòng sâm Ngọc Linh đa bội được nhóm tạo ra bước đầu có sự gia tăng kích thước, lá dày hơn, cuống lá to hơn, cây cao hơn so với mẫu lưỡng bội. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở bước đầu nhằm tạo ra được một số dòng sâm Ngọc Linh đa bội phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Để ứng dụng sâm Ngọc Linh đa bội vào sản xuất, theo thạc sĩ Hiểu cần nghiên cứu sâu hơn về khả năng tăng trưởng, khả năng thích nghi cũng như đánh giá hàm lượng dược chất so với sâm lưỡng bội. “Sâm Ngọc Linh đa bội trên lý thuyết giúp làm tăng hàm lượng các dược chất quý. Tuy nhiên việc này cần được đánh giá thực tế thông qua thực nghiệm để có số liệu mang tính thuyết phục”, thạc sĩ Hiểu nói. Thời gian tới nhóm sẽ tiến tục nghiên cứu phân tích một số thành phần dược chất chính trong mẫu sâm Ngọc Linh đa bội được tạo ra nhằm so sánh hàm lượng dược chất trong mẫu sâm đa bội so với dược chất trong giống sâm lưỡng bội ban đầu.

Sâm Ngọc Linh thể đa bội (phải) bên cạnh cây thể lưỡng bội. Ảnh; Nhóm nghiên cứuSâm Ngọc Linh thể đa bội (phải) bên cạnh cây thể lưỡng bội. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

TS Hà Thị Loan, Phó giám đốc Trung tâm Công nghệ Sinh học TP HCM đánh giá, nghiên cứu tạo dòng đa bội của là hướng khá mới trong nước nhằm hướng đến tạo giống sâm Ngọc Linh có khả năng sinh trưởng nhanh, hàm lượng dược chất cao. Tuy nhiên, bà cho rằng, nhóm cần tiếp tục nghiên cứu tiến tới việc trồng sâm Ngọc Linh đa bội thực tế để có các đánh giá hàm lượng hợp chất quý trong sâm và nhân nhanh sinh khối nhằm thu hợp chất. “Chúng tôi sẽ có phương án hỗ trợ nhóm về vùng trồng thử nghiệm sâm để thực hiện nghiên cứu giai đoạn tiếp theo”, TS Loan nói.

Hà An

Phát hiện vi nhựa trong não người

Các nhà khoa học ở Brazil phát hiện vi nhựa trong mô não của tử thi theo nghiên cứu mới công bố hôm 16/9 trên tạp chí JAMA Network Open.Vi nhựa là những mẩu nhựa cực nhỏ kích cỡ từ 5,5 đến 26,4 micromet. Ảnh: Yahoo

Vi nhựa là những mẩu nhựa cực nhỏ kích cỡ từ 5,5 đến 26,4 micromet. Ảnh: Yahoo

Trong vài năm qua, giới nghiên cứu tìm thấy vi nhựa ở gần như mọi bộ phận cơ thể, cũng như trong mạch máu và xơ vữa động mạch. Tuy nhiên, vi nhựa có thể tiếp cận não người hay không là mối quan tâm lớn đối với những nhà khoa học. Nghiên cứu mới nhất xem xét một phần bộ não gọi là hành khứu chuyên xử lý thông tin về mùi. Con người có hai hành khứu nằm ở phía trên mỗi khoang mũi. Nối giữa hành khứu và khoang mũi là dây thần kinh khứu giác, theo NBC.

Một số nhà nghiên cứu lo ngại đường khứu giác có thể là điểm vào để vi nhựa đến não, vượt khỏi hành khứu. “Nghiên cứu trước đây ở người và động vật cho thấy ô nhiễm không khí tiến đến bộ não và các hạt ô nhiễm được tìm thấy ở hành khứu. Đó là lý do chúng tôi nghĩ hành khứu có thể là một trong những điểm đầu tiên để vi nhựa đến não”, trưởng nhóm nghiên cứu là tiến sĩ Thais Mauad, phó giáo sư bệnh lý học ở Trường y São Paulo tại Brazil, cho biết.

Mauad và cộng sự lấy mẫu mô hành khứu từ 15 tử thi của người chết trong độ tuổi 33 – 100. Mẫu vật từ 8 tử thi chứa vi nhựa, những mẩu nhựa cực nhỏ kích cỡ từ 5,5 đến 26,4 micromet. Tổng cộng, nhóm nghiên cứu tìm thấy 16 sợi và hạt nhựa trong mẫu mô. Loại nhỏ nhất mỏng hơn đường kính hồng cầu của con người (khoảng 8 micromet). Loại nhựa phổ biến nhất mà họ tìm thấy là polypropylene, tiếp theo là polyamide, nylon và polyethylene vinyl acetate. “Propylene có ở khắp mọi nơi, trong đồ gia dụng, thảm, quần áo”, Mauad nói. “Nơi chúng ta tiếp túc nhiều nhất với hạt nhựa là trong nhà, bởi nhà của chúng ta chứa đầy nhựa”.

Matthew Campen, chuyên gia về chất độc ở Đại học New Mexico, cho rằng sự tồn tại của vi nhựa trong hành khứu rất đáng chú ý nhưng không quá bất ngờ. “Mũi là điểm bảo vệ quan trọng để ngăn các hạt và bụi tiến vào phổi. Vì vậy, phát hiện nhựa trong hệ thống khứu giác hoàn toàn nằm trong dự kiến, đặc biệt khi chúng có mặt ở mọi nơi khác trong cơ thể”, Campen nhận xét.

Theo Campen, mẫu vật nhiều khả năng cũng chứa nhựa nano, có kích cỡ 1 – 1.000 nanomet (1 cm bằng 10.000.000 nm). Một sợi ADN người dày khoảng 2,5 nm. Việc vi nhựa xuất hiện trong hành khứu không nhất thiết có nghĩa nó có ở mọi nơi khác trong bộ não như các vùng liên quan tới nhận thức. Nhóm nghiên cứu vẫn chưa rõ liệu hạt vi nhựa có thể tiến tới những vùng đó thông qua hành khứu hay không.

Hệ thống khứu giác là đường truyền giữa mũi và bộ não. Hệ thống phát hiện mùi bằng cách xử lý phân tử mùi li ti phát ra từ nhiều vật thể khác nhau như bánh mỳ nướng hay bó hoa. Phân tử mùi kích thích dây thần kinh khứu giác và tín hiệu được xử lý trong bộ não. Các hạt khác có thể di chuyển theo lộ trình tương tự. Dù hiếm gặp, trùng amip như Naegleria fowleri lớn hơn vi nhựa phát hiện trong nghiên cứu, có thể tiến vào não thông qua dây thần kinh khứu giác. “Chúng tôi cho rằng nếu vi khuẩn có thể đi qua con đường này, vi nhựa cũng có thể”, Mauad nói.

Theo Campen, nhựa nano nhiều khả năng tiến vào não qua mạch máu hơn. Mạch máu thu thập vi nhựa từ phổi hoặc đường tiêu hóa thay vì hành khứu. Tuy nhiên, các hạt cực khó tiến vào não qua máu, ngay cả hạt trong dược phẩm. Đó là vì bộ não được bao bọc bởi lớp màng bán thấm gọi là hàng rào máu não.

Nghiên cứu về vi nhựa trong cơ thể vẫn còn mới. Phần lớn những gì giới khoa học biết như quá trình 4.000 hóa chất được sử dụng để tạo ra nhựa và phân hủy bị hạn chế trong nghiên cứu trên động vật. Một nghiên cứu gần đây cho thấy tiếp xúc với vi nhựa qua nước uống trong 3 tuần gây ra thay đổi nhận thức trong não chuột.

An Khang (Theo NBC)