Bơm nhiệt lớn nhất thế giới

Bơm nhiệt của thành phố Helsinki sẽ cung cấp 200 GWh năng lượng nhiệt hàng năm, có thể sưởi ấm 30.000 hộ gia đình và giúp giảm 26.000 tấn khí CO2.Bơm nhiệt lớn nhất thế giới được lắp đặt ở Helsinki, Phần Lan. Ảnh: MAN Energy Solutions

Bơm nhiệt lớn nhất thế giới được lắp đặt ở Helsinki, Phần Lan. Ảnh: MAN Energy Solutions

Helsinki, thủ đô của Phần Lan, đang xây dựng bơm nhiệt lớn nhất thế giới để sưởi ấm cho 30.000 hộ gia đình trong mùa đông, đồng thời giảm khí thải chứa carbon. Bơm nhiệt này có thể hoạt động ở điều kiện thấp tới -20 độ C trong khi chỉ dùng nguồn năng lượng tái tạo, Interesting Engineering hôm 30/8 đưa tin.

Sưởi toàn khu vực là cơ chế được triển khai phổ biến để tối đa hóa hiệu suất năng lượng. Nhà chức trách sẽ tập trung hóa sản xuất nhiệt và phân phối tới từng gia đình cùng hộ kinh doanh thông qua mạng lưới đường ống dưới lòng đất. Cách tiếp cận như vậy đang được sử dụng ở nhiều thành phố trên khắp thế giới nhưng thường phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch để sản xuất nhiệt.

Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, một nửa năng lượng của Phần Lan dùng để sưởi ấm và làm mát đến từ sinh khối. Trong khi Helsinki hướng tới không thải khí chứa carbon vào cuối thập kỷ, chính quyền thành phố đang nâng cấp hệ thống sưởi trung tâm để chuyển sang tiêu thụ lượng lớn năng lượng từ nguồn tái tạo sạch hơn.

“Helsinki đặt mục tiêu tham vọng là không thải khí chứa carbon vào năm 2030 và chuyển đổi hệ thống sưởi đóng vai trò chủ chốt giúp đạt mục tiêu đó”, Juhani Aaltonen, phó chủ tịch đầu tư năng lượng xanh ở Helen Oy, công ty năng lượng Phần Lan vận hành hệ thống sưởi, cho biết.

Khác với lò sưởi hay điều hòa nhiệt độ hoạt động tốt trong một mùa, bơm nhiệt tiết kiệm năng lượng hơn và có thể vận hành trong mọi thời tiết. Bơm nhiệt hoạt động dựa trên nguyên tắc đơn giản là truyền nhiệt từ nơi mát mẻ tới nơi ấm áp, khiến nơi mát mẻ trở nên mát hơn và nơi ấm áp trở nên ấm hơn. Hệ thống đạt được điều đó thông qua sử dụng điện để nâng nhiệt lượng ở nhiệt độ thấp lên mức cao hơn có thể sử dụng được. Trong khi hầu hết bơm nhiệt sử dụng khí gas có hại cho môi trường, cơ sở ở Helsinki sẽ sử dụng carbon dioxide như chất làm lạnh.

Theo MAN Energy, nhà sản xuất bơm nhiệt, CO2 có thể giúp cung cấp nhiệt lượng nóng tới 90 độ C trong khi hoạt động ở nhiệt độ -20 độ C. Công suất sản xuất nhiệt lượng nằm trong khoảng 20 – 33 MW, tùy theo nhiệt độ không khí, biến cơ sở thành máy bơm nhiệt lớn nhất thế giới. Cơ cấu trên cũng rất độc đáo do dùng một máy nén motor không dầu. Máy nén sử dụng motor tốc độ cao và ổ trục chủ động, cho phép hoạt động mà không cần hệ thống khí chèn hoặc hệ thống dầu.

Điện dùng cho bơm nhiệt được lấy từ nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời, giúp chuyển nhu cầu sưởi ấm từ dựa vào nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng xanh. Bơm nhiệt với các nồi hơi 50 MW sẽ cung cấp 200 GWh năng lượng nhiệt cho 30.000 hộ gia đình Helsinki hàng năm, giúp giảm 26.000 tấn khí CO2. Bơm nhiệt dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2026 – 2027, mang lại sự ổn định về giá cho khách hàng bởi quá trình sản xuất có thể điều chỉnh dễ dàng.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

Lò nhiệt hạch sản xuất điện công suất 100 MW

Lò phản ứng nhiệt hạch xoắn của Helical Fusion có thể hoạt động ổn định trong thời gian dài với công suất ban đầu trong khoảng 50 – 100 MW.Helical Fusion sẽ đưa lò phản ứng vào hoạt động năm 2034 và thương mại hóa sản xuất vào những năm 2040. Ảnh: Reuters

Helical Fusion sẽ đưa lò phản ứng vào hoạt động năm 2034 và thương mại hóa sản xuất vào những năm 2040. Ảnh: Reuters

Công ty khởi nghiệp Helical Fusion ở Tokyo, Nhật Bản, đang hướng tới thay đổi sản xuất điện bằng phương pháp sạch hơn có thể cung cấp năng lượng vô hạn. Helical Fusion lên kế hoạch ra mắt lò nhiệt hạch trạng thái ổn định đầu tiên trên thế giới. Họ dự định phát triển một lò thí điểm dựa trên phương pháp xoắn, một kỹ thuật kìm hãm từ trường. Lò phản ứng mang tên HESTIA sẽ có công suất ban đầu 50 – 100 MW, Interesting Engineering hôm 31/8 đưa tin.

Lò phản ứng của Helical Fusion có thể là loại lò sao gọi là heliotron, bao gồm hai lõi xoắn liên tục, có thể hoạt động mà không cần dòng plasma. Công ty cũng muốn thương mại hóa sản xuất sau khi phát triển thành công lò phản ứng. “Chúng tôi sẽ tạo ra lò phản ứng nhiệt hạch trạng thái ổn định đầu tiên và sản xuất điện trong vòng 10 năm tới”, Takaya Taguchi, giám đốc điều hành Helical Fusion, cho biết.

Lò nhiệt hạch công suất nhỏ có tiềm năng ứng dụng như một nguồn điện địa phương cho các nhà máy như lò nung thép hoặc titanium, hòn đảo hẻo lánh hoặc tàu lớn. Chi phí xây dựng nhà máy điện ước tính vào khoảng 5 tỷ USD. Sau hơn một năm hoạt động liên tục, công tác bảo dưỡng có thể hoàn thành trong vòng 3 tháng để đạt tỷ lệ sẵn sàng cao hơn 80%. Phản ứng nhiệt hạch của đồng vị hydro như deuterium và tritium sử dụng 1 gram nhiên liệu tạo ra cùng mức năng lượng như đốt 8 tấn dầu mỏ, theo Helical Fusion.

Thành lập vào năm 2021, Helical Fusion đặt mục tiêu lắp đặt một lò nhiệt hạch xoắn thương mại để cung cấp điện cho cộng đồng. HESTIA, lò nhiệt hạch deuterium – tritium, trong đó tritium được tự sản xuất bằng hệ thống phủ kim loại lỏng, sẽ đóng vai trò quan trọng đối với nhà máy thí điểm của công ty. Các kỹ sư sử dụng sóng điện từ công suất cao ở tần số đặc biệt để làm nóng plasma, do không cần dẫn dòng plasma, HESTIA có thể vận hành ở trạng thái ổn định cỡ một năm.

Trong lò nhiệt hạch xoắn, từ trường cần thiết để kìm hãm plasma được tạo ra chỉ với cuộn dây điện từ. Cách này cho phép kìm hãm plasma ổn định trong thời gian dài với sản lượng đều đặn, do đó rất phù hợp để sản xuất điện.

Tuy nhiên, Taguchi đề cập tới một số thách thức khi thực hiện kế hoạch, bao gồm khó khăn trong việc gọi vốn một nghìn tỷ yen để phát triển lò phản ứng thí điểm, công nghệ siêu dẫn nhiệt độ cao cho cuộn dây và thiết lập quy định an toàn để xin giấy phép xây dựng ở địa phương.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

Động đất giúp tạo ra những khối vàng khổng lồ

Trong các mạch thạch anh, vàng kết tụ thành khối lớn dần sau mỗi trận động đất, có thể nặng tới 60 kg.Những khối vàng hình thành bên trong các mạch thạch anh - vết nứt trong đá chứa đầy dung dịch thủy nhiệt giàu khoáng vật. Ảnh: Henri Koskinen

Những khối vàng hình thành bên trong các mạch thạch anh – vết nứt trong đá chứa đầy dung dịch thủy nhiệt giàu khoáng vật. Ảnh: Henri Koskinen

Vàng tự nhiên hình thành trong thạch anh – khoáng vật dồi dào thứ hai trong vỏ Trái Đất, chỉ sau tràng thạch (feldspar). Không giống các loại vàng kết tụ khác, vàng trong thạch anh thường tập trung thành khối lớn. Trong nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Nature Geoscience hôm 2/9, nhóm nhà khoa học phát hiện, động đất đã kích thích thạch anh tạo nên những khối vàng lớn, giải đáp được bí ẩn tồn tại nhiều thập kỷ.

Dung dịch thủy nhiệt mang những nguyên tử vàng từ sâu dưới lòng đất lên và đẩy chúng qua các mạch thạch anh, nghĩa là về mặt lý thuyết, vàng đáng lẽ sẽ phân tán đều trong các vết nứt thay vì tập trung thành khối, theo Chris Voisey, nhà địa chất tại Đại học Monash, tác giả chính của nghiên cứu mới. Những khối này đặc biệt giá trị và chiếm tới 75% tổng lượng vàng từng được khai thác.

Voisey cho biết, có hai manh mối giúp ông cùng đồng nghiệp giải mã bí ẩn về khối vàng. Đầu tiên, những khối lớn nhất xuất hiện trong các mỏ vàng kiến tạo núi – mỏ hình thành trong quá trình động đất. Thứ hai, thạch anh là một khoáng vật áp điện, nghĩa là nó tạo ra điện tích riêng do áp lực địa chất, ví dụ như áp lực do động đất gây ra.

Nhóm nghiên cứu phát hiện, động đất làm nứt đá và đẩy dung dịch thủy nhiệt lên các mạch thạch anh, lấp đầy chúng với vàng hòa tan. Trước áp lực của động đất, mạch thạch anh tạo ra điện tích phản ứng với vàng, khiến vàng kết tụ và cứng lại.

“Vàng tập trung ở một số vị trí nhất định vì vàng hòa tan trong dung dịch sẽ ưu tiên kết tụ trên những hạt vàng đã tồn tại từ trước. Về cơ bản, vàng hoạt động như một điện cực cho các phản ứng tiếp theo bằng cách tiếp nhận điện áp do các tinh thể thạch anh gần đó tạo ra”, Voisey cho biết.

Điều này đồng nghĩa, trong mạch thạch anh, vàng cứng lại thành các khối lớn dần sau mỗi trận động đất. Voisey cho biết, những khối vàng kiến tạo núi lớn nhất được tìm thấy đến nay nặng khoảng 60 kg.

Để kiểm tra, nhóm nghiên cứu đã mô phỏng tác động của động đất lên tinh thể thạch anh trong phòng thí nghiệm. Họ ngâm tinh thể vào dung dịch chứa vàng và tái tạo sóng địa chấn để tạo ra điện tích áp điện. Thí nghiệm đã xác nhận rằng dưới áp lực địa chất, thạch anh có thể tạo ra điện áp đủ lớn để khiến vàng trong dung dịch kết tụ, đồng thời xác nhận rằng vàng thường kết tụ trên những quặng vàng có từ trước, giúp giải thích sự hình thành khối vàng lớn.

Ngoài giải mã bí ẩn về sự hình thành của những khối vàng lớn, nghiên cứu mới còn có thể giúp giới khoa học tạo ra chúng trong phòng thí nghiệm. “Nhưng đó không phải là thuật giả kim. Bạn phải có vàng trong dung dịch, sau đó chỉ cần chuyển nó từ trạng thái tan trong dung dịch thành bám vào một thứ khác”, Voisey nói.

Thu Thảo (Theo Live Science)

Quần thể Voọc Cát Bà tăng lên hơn 90 con

Trong hơn 6 tháng năm 2024 có 15 cá thể Voọc Cát Bà con được sinh ra, nâng tổng số quần thể lên hơn 90, con số cao nhất trong khoảng 100 năm qua.

Ông Neahga Leonard, Giám đốc Dự án Bảo tồn Voọc Cát Bà cho biết, số lượng quần thể được xác nhận qua nghiên cứu về gene di truyền Voọc Cát Bà của Trung tâm nghiên cứu Linh trưởng Göttingen – CHLB Đức.

Voọc Cát Bà hay còn gọi Voọc Đầu Vàng (Trachypithecus poliocephalus) là loài linh trưởng đặc hữu của Quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, đang ở mức cực kỳ nguy cấp và có số lượng ít thứ 2 trên thế giới.

Từng phân bố rộng rãi trên đảo quần đảo Cát Bà, song nạn săn bắt đã khiến loài vật đặc hữu này giảm xuống chỉ khoảng trên 40 cá thể vào năm 2000. Sau đó Vườn Quốc gia Cát Bà đã phối hợp với Hội động vật về bảo tồn loài và quần thể (ZGAP) và Vườn thú Allwetterzoo Münster (CHLB Đức) thành lập Dự án Bảo tồn Voọc Cát Bà để ngăn chặn nguy cơ tuyệt chủng loài này.

Kết quả, số lượng cá thể Voọc tăng dần. Từ đầu năm 2024 đến nay có 14/15 con non được sinh ra và sống khỏe mạnh. Theo Ban quản lý dự án, đây là năm có số lượng con non được sinh ra nhiều nhất. “Điều này chứng tỏ những nỗ lực bảo vệ an toàn cho đàn Voọc Cát Bà có kết quả. Chúng tôi hy vọng có thể có thêm con non từ nay đến cuối năm”, ông Neahga nói.Một cá thể Voọc Cát Bà trưởng thành và một ở độ tuổi niên thiếu. Ảnh: Neahga Leonard

Một cá thể Voọc Cát Bà trưởng thành và một ở độ tuổi niên thiếu. Ảnh: Neahga Leonard

Theo ông Neahga Leonard, dự án bắt đầu với một quần thể động vật hoang dã bị sụt giảm xuống mức nguy hiểm, đứng bên bờ tuyệt chủng vào năm 2000. Những năm đầu, nhóm triển khai cố gắng ổn định quần thể, tránh mất mát hơn nữa do nạn săn bắt. Khi đó tỷ lệ con cái tham gia hoạt động sinh sản thấp. Cứ hai năm cá thể mẹ mới sinh con một lần. Bởi vậy sự gia tăng trong những năm đầu vô cùng chậm. “Chỉ đến khi kích thước quần thể dần lớn hơn, chúng tôi mới có được số cá thể cái tham gia sinh sản tăng lên đáng kể như ngày nay, khoảng 30 cá thể, chiếm 30% quần thể Voọc Cát Bà”, ông Neahga Leonard nói.

Ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch UBND huyện Cát Hải đánh giá, sự gia tăng của quần thể Voọc Cát Bà là một tín hiệu đáng mừng cho công tác bảo tồn linh trưởng của Việt Nam và thế giới. Voọc Cát Bà là một trong số ít những loài linh trưởng trong tình trạng nguy cấp đang gia tăng.

Hơn 90 cá thể Voọc Cát Bà hiện sống chủ yếu trên những vách đá cheo leo bên bờ biển của Quần đảo Cát Bà, nơi gắn liền với nguồn thức ăn và nơi trú ngụ an toàn cho chúng.Một đàn Voọc Cát Bà trên vách đá. Ảnh: Mai Sỹ Luân

Một đàn Voọc Cát Bà trên vách đá. Ảnh: Mai Sỹ Luân

Tất cả các loài voọc trong chi Trachypithecus đều sinh con có màu vàng cam. Đây là một đặc điểm xã hội, giúp thu hút sự chú ý, quan tâm của các cá thể trưởng thành, tạo sự gắn kết, chia sẻ trong đàn. Voọc con bú sữa mẹ trong những tháng đầu đời. Chúng bắt đầu tập ăn chồi non từ khoảng tháng thứ 3. Tùy từng cá thể, song từ tháng thứ 5 màu da và lông của cá thể trưởng thành đã dần xuất hiện – tối hơn ở cơ thể, hơi xám ở chân và màu vàng đến vàng nhạt ở cổ, đầu. Khi màu lông của con non dần chuyển sang màu của con trưởng thành thì sự quan tâm của các thể khác trong đàn cũng sẽ giảm dần đi. Con cái bắt đầu sinh sản từ khoảng 4 – 6 tuổi.

Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalus) có những đặc điểm ngoại hình khá giống với Voọc Đầu trắng (Trachypithecus leucocephalus) ở miền Nam Trung Quốc và thường bị gọi nhầm theo tên gọi đó. Tuy nhiên, màu lông phần đầu của Voọc Cát Bà trưởng thành có màu trắng và vàng, của Voọc Đầu Trắng chỉ có màu trắng và chúng vẫn là những loài khác biệt.

Ngọc Hân

Bước tiến quan trọng trong hợp tác thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam – Hàn Quốc

Chuyến thăm và làm việc với Công viên công nghệ Incheon (Incheon Techno Park – ITP) của đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cùng các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ thắt chặt quan hệ hợp tác mà còn tạo định hướng mới cho quan hệ hợp tác về khởi nghiệp sáng tạo (KNST) Việt Nam – Hàn Quốc thời gian tới.
Trong khuôn khổ tham dự Tuần lễ đầu tư khởi nghiệp (Startup Investment Week) và Techfest in Korea diễn ra từ ngày 2-5/9/2024 tại Hàn Quốc, đoàn Bộ KH&CN do Thứ trưởng Hoàng Minh làm trưởng đoàn cùng các doanh nghiệp Việt Nam đã có chuyến tham quan và làm việc với ITP.
ITP được coi là nền tảng đại diện về ĐMST công nghệ và tăng trưởng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) của Incheon, đồng thời là một tổ chức công thuộc Cơ quan quản lý hỗ trợ trực thuộc thành phố đô thị Incheon, Cơ quan quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc. ITP có chức năng hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các SMEs quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp.
Phát biểu tại buổi làm việc, ông Lee Han Nam – Giám đốc Phòng chính sách ngành, thành phố đô thị Incheon cho biết, ITP là trung tâm nuôi dưỡng các công ty ĐMST đã thành lập và đang có ý định thành lập thông qua các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp tự tạo ra sản phẩm và dịch vụ của mình.
Toàn cảnh buổi làm việc.
Các sản phẩm xuất sắc của doanh nghiệp sẽ được đưa vào ITP hoặc các trung tâm để người dân có thể trực tiếp trải nghiệm. ITP đóng vai trò chủ chốt hỗ trợ doanh nghiệp từ lúc có ý định khởi nghiệp cho đến khi phát triển, đưa sản phẩm vào thực tiễn cuộc sống, trong đó, hoạt động trải nghiệm đóng vai trò quan trọng.
ITP không chỉ hỗ trợ kinh phí mà còn hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường để phát triển. Đồng thời, cung cấp không gian như văn phòng làm việc cho doanh nghiệp, tạo dựng mạng lưới hoặc hỗ trợ về tài nguyên cho các doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp tự thiết lập và xây dựng khu công nghiệp riêng.
Ông Lee Han Nam khẳng định, Hàn Quốc sẽ đẩy mạnh kết nối doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp lớn để tạo ra sản phẩm hiệu quả hơn. Công viên sẽ hỗ trợ theo đề xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đổi mới, cải tiến sản phẩm. Bên cạnh đó, Hàn Quốc có chính sách ưu đãi để sản phẩm của doanh nghiệp được kiểm định trước khi đưa ra thị trường. Thời gian tới, công viên sẽ đẩy mạnh kết nối doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp lớn để tạo sản phẩm hiệu quả hơn.
Theo ông Lee Choon Seop – Chủ tịch Hiệp hội SMEs của Hàn Quốc, SMEs đặc biệt quan tâm tới việc giao lưu công nghệ và đầu tư ra nước ngoài. Vừa qua, Hiệp hội đã có hoạt động giao lưu hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam tại Hà Nội. Qua đó, cho thấy sự quan tâm và mong muốn đầu tư của doanh nghiệp Hàn Quốc vào Việt Nam rất cao. Hy vọng trong tương lai, hoạt động giao lưu giữa 2 nước sẽ được mở rộng hơn nữa.
Đặc biệt, các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội đang tập trung vào lĩnh vực công nghệ sinh học, hàng không, rô bốt, ô tô. Ông Lee Choon Seop kỳ vọng, buổi làm việc này có thể trao đổi về sự phát triển của công nghệ hai nước, thúc đẩy hợp tác phát triển doanh nghiệp hai nước về ĐMST trong tương lai.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh cảm ơn trước sự đón tiếp nồng hậu và những chia sẻ từ phía Hàn Quốc. Thứ trưởng ấn tượng trước sự phát triển trong lĩnh vực công nghệ của thành phố đô thị Incheon.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh trao đổi tại buổi làm việc.
Thứ trưởng cho biết, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST ngày càng phát triển vượt bậc. Đặc biệt, tháng 6/2024, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính đã tới thăm Hàn Quốc, nhân chuyến thăm này, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt và Bộ trưởng Bộ Doanh nghiệp nhỏ và vừa và Khởi nghiệp Hàn Quốc OH Youngju đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển và trao đổi hệ sinh thái khởi nghiệp.
Thứ trưởng Hoàng Minh nhấn mạnh, “trên nền tảng quan trọng của Biên bản ghi nhớ hợp tác này, chuyến tham quan và làm việc với ITP của đoàn góp phần thắt chặt quan hệ, tạo định hướng mới cho quan hệ hợp tác về KNST Việt Nam – Hàn Quốc thời gian tới.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Giới thiệu sách “Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” – Tác Giả TS. Khương Quang Đồng

Giới thiệu sách “Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” – Tác Giả TS Khương Quang Đồng

Trong thời đại mà biến đổi khí hậu đang trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với sự tồn vong của nhân loại, cuốn sách “Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” của TS Khương Quang Đồng ra đời như một lời cảnh tỉnh và kêu gọi cấp bách về việc thay đổi tư duy và hành động của chúng ta. Tác giả không chỉ mở ra những góc nhìn mới mẻ về ngành công nghiệp ô tô, mà còn vạch ra những thách thức và cơ hội trong cuộc chiến bảo vệ hành tinh xanh.

Sự Phung Phí và Hệ Lụy

Cuốn sách bắt đầu bằng việc phác họa một bức tranh đáng suy ngẫm về thế kỷ 20, thời điểm mà các quốc gia giàu có ở châu Âu và Bắc Mỹ đã tận dụng nguồn năng lượng một cách vô tư và phung phí. Tác giả miêu tả hình ảnh những con đường sáng rực đèn điện vào ban đêm, những tòa nhà chọc trời chiếu sáng không mục đích, và hàng triệu chiếc SUV khổng lồ chỉ chở một người trên các con đường kẹt cứng. Những hình ảnh này không chỉ là minh chứng cho một xã hội tiêu thụ mà còn là một lời cảnh báo về sự phí phạm năng lượng khủng khiếp.

Hậu quả của sự phung phí này là hiện thực tàn khốc mà chúng ta đang đối mặt: từ khủng hoảng năng lượng đến biến đổi khí hậu, với biểu hiện rõ nét nhất là sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Hội nghị COP21 tại Paris năm 2015 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hạn chế lượng khí thải CO2 và đưa ra mục tiêu đạt carbon trung tính vào năm 2050. Tuy nhiên, con đường để đạt được mục tiêu này không hề dễ dàng, đặc biệt là đối với ngành công nghiệp ô tô.

Cuộc Cách Mạng Trong Ngành Công Nghiệp Ô Tô

Một trong những điểm nhấn của cuốn sách là việc phân tích sự chuyển đổi đầy khó khăn trong ngành công nghiệp ô tô từ các động cơ đốt trong truyền thống sang những công nghệ mới, thân thiện với môi trường hơn. Mặc dù xe điện đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, nhưng sự tăng trưởng này đang dần suy giảm. Nhiều tập đoàn lớn như Volkswagen, Ford, General Motors, và thậm chí cả Tesla, đã phải điều chỉnh kế hoạch sản xuất xe điện và hoãn các dự án đầu tư.

Trong khi đó, Toyota, dưới sự lãnh đạo của cựu Tổng Giám đốc Akio Toyoda, lại chọn một hướng đi khác biệt khi không tập trung hoàn toàn vào ô tô điện. Thay vào đó, họ kết hợp nhiều công nghệ khác nhau như hybrid, điện pin, và các loại xe chạy bằng hydro, với lý luận rằng đây mới là con đường hiệu quả để đạt được mục tiêu carbon trung hòa. Cuốn sách nhấn mạnh rằng, mặc dù ô tô điện có thể chỉ là một phần của giải pháp, chúng ta cần phải nhìn xa hơn và kết hợp nhiều công nghệ để đạt được mục tiêu cuối cùng.

Thách Thức và Cơ Hội

TS Khương Quang Đồng không chỉ dừng lại ở việc phân tích những khó khăn mà còn đề cập đến những cơ hội trong tương lai. Ông chỉ ra rằng, mặc dù công nghệ hydro có tiềm năng lớn, nhưng hiện tại chưa sẵn sàng để thay thế hoàn toàn động cơ đốt trong. Các công nghệ như pin nhiên liệu, eFuel, và động cơ đốt trong chạy bằng hydro vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu và phát triển, và ít nhất một thập niên nữa mới có thể trở nên phổ biến.

Tác giả cũng cảnh báo về những khó khăn và hỗn loạn mà ngành công nghiệp ô tô toàn cầu sẽ phải đối mặt trong thập niên tới. Từ đầu thế kỷ 20, hệ thống kỹ thuật và xã hội của ô tô đã được định hình dựa trên mô hình xe chạy bằng xăng/dầu. Tuy nhiên, với sự chuyển đổi sang các công nghệ mới như ô tô điện và hydro, cả chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp này sẽ phải thay đổi theo. Những thay đổi này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh giữa các tập đoàn lớn mà còn đe dọa đến sự ổn định địa chính trị toàn cầu.

Lời Kết

“Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” không chỉ là một cuốn sách về công nghệ hay kinh tế, mà còn là một lời kêu gọi mạnh mẽ về việc thay đổi tư duy và hành động để bảo vệ hành tinh của chúng ta. Cuốn sách của TS Khương Quang Đồng sẽ là nguồn cảm hứng và kiến thức quý báu cho những ai quan tâm đến tương lai của ngành công nghiệp ô tô và hành tinh xanh.

Hãy cùng nhau đọc và suy ngẫm để hiểu rõ hơn về những thách thức mà chúng ta đang đối mặt, và quan trọng hơn là, tìm ra những giải pháp để cùng nhau xây dựng một tương lai bền vững.

 

Quý độc giả có thể mua sách tại:

Quốc Khánh

Tiến sĩ Việt phát triển công nghệ tạo thuốc diệt tế bào ung thư

Từ một chất có trong sữa mẹ, TS Trần Thị Hiền cùng cộng sự tại Đại học Lund (Thụy Điển) đã tạo ra phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid ở quy mô công nghiệp phục vụ phát triển thuốc mới điều trị ung thư.

Từ năm 2000, nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới bắt đầu chạy đua nghiên cứu tạo phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid (còn gọi là HAMLET/BAMLET – chất có trong sữa mẹ) cho sản xuất thuốc chống lại bệnh ung thư. Chất này vốn được phát hiện bởi nhóm nghiên cứu của GS Catharina Svanborg (Đại học Lund, Thụy Điển) vào năm 1995, đã được chứng minh có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây hại cho tế bào/mô khỏe mạnh. Tuy nhiên các nhóm nghiên cứu mới chỉ tạo được phức hợp HAMLET ổn định trong thời gian ngắn, quy mô phòng thí nghiệm.

Nhóm nghiên cứu của TS Trần Thị Hiền, 40 tuổi, trở thành nhóm đầu tiên thành công tìm ra quy trình tạo phức hợp HAMLET đưa vào thử nghiệm lâm sàng và quy mô sản xuất công nghiệp.

Điểm độc đáo của phức hợp này là có thành phần alpha lactalbumin – một protein tìm thấy trong sữa mẹ hoặc sữa bò – nên an toàn cả với trẻ sơ sinh. Phức hợp đặc hiệu chỉ trên tế bào ung thư hay tế bào nhiễm virus/vi khuẩn gây bệnh, không gây ra độc tính và tác dụng phụ như các thuốc hóa trị, xạ trị thường thấy khác.

Nghiên cứu mở ra hướng mới trong điều trị ung thư an toàn và hiệu quả khi phối hợp với các liệu pháp thông thường. “Đây là khác biệt lớn nhất so với các thuốc ung thư hiện nay, khiến chúng trở thành ứng viên tiềm năng cho các phương pháp điều trị bệnh”, TS Hiền nói với VnExpress từ Thụy Điển.TS Trần Thị Hiền trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NVCC

TS Trần Thị Hiền trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NVCC

Nghiên cứu này được TS Hiền và cộng sự bắt tay thực hiện từ năm 2015. Sau gần 10 năm, họ tìm được quy trình tạo dạng hoạt động ổn định của phức hợp trên quy mô công nghiệp. Từ kết quả đó phát triển bào chế có tính khả thi thực hiện sản xuất được trên các dây chuyền nhà máy đạt GMP và đưa ra phương pháp đánh giá tác dụng tiêu diệt ung thư của thuốc sau khi sản xuất.

Hiện nhóm đã thành công trên nghiên cứu tiền lâm sàng phức hợp HAMLET trong điều trị và dự phòng với các bệnh ung thư đại trực tràng, gan, dạ dày, phổi, vú, cổ tử cung, tuyến tiền liệt, hạch bạch huyết, vòm họng, khoang miệng, da… với các dạng bào chế khác nhau. Giai đoạn thử nghiệm phase 3 lâm sàng do FDA phê duyệt với ung thư bàng quang và giai đoạn 1 của ung thư não ác tính.Hình ảnh ung thư ruột kết và tác dụng làm giảm khối u polyp của phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid (Hình ảnh khối u được đánh dấu bằng mũi tên màu đen). Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Hình ảnh ung thư ruột kết và tác dụng làm giảm khối u polyp của phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid (Hình ảnh khối u được đánh dấu bằng mũi tên màu đen). Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Nhóm còn chứng minh được cơ chế phức hợp này có tác dụng tiêu diệt đặc hiệu tế bào nhiễm virus HPV, một trong những nguyên nhân gây ra ung thư cổ tử cung. Bằng cách tấn công và phá hủy RNA thông tin di truyền của virus HPV, phức hợp này khiến cả tế bào nhiễm virus và virus bị chết mà không gây ảnh hưởng đến tế bào lành. Phương pháp điều trị đặc hiệu mới này có tác dụng với các bệnh liên quan đến HPV như sùi mào gà, viêm nhiễm phụ khoa do HPV/vi khuẩn và ung thư cổ tử cung do HPV. HPV hiện nay chưa có thuốc đặc trị. Phát hiện được công bố trên tạp chí y khoa danh tiếng hàng đầu thế giới New England Journal of Medicine.Hình ảnh u nhú ở người do HPV sau 3 tuần bôi Alpha lactalbumin-oleic acid và tỉ lệ tái phát dưới 2% sau 2 năm. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Hình ảnh u nhú ở người do HPV sau 3 tuần bôi Alpha lactalbumin-oleic acid và tỷ lệ tái phát dưới 2% sau 2 năm. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Cô nói thêm, việc sản xuất phức hợp HAMLET trên quy mô công nghiệp vẫn có nhiều thách thức như phải đạt được độ tinh khiết cao, bền vững, ổn định khi mở rộng quy mô.

Hiện TS Hiền lên kế hoạch đưa công nghệ sản xuất này về Việt Nam nhằm phát triển thuốc ung thư mới với giá thành rẻ hơn so với thuốc nhập khẩu. “Tôi sẵn sàng hợp tác chuyển giao công nghệ cho Việt Nam”, cô nói và bày tỏ mong muốn hợp tác với các chuyên gia, bác sĩ, nhà khoa học và các tổ chức thực hiện thử nghiệm lâm sàng cho bệnh nhân ung thư và phát triển sản xuất.

PGS.TS Đỗ Thị Hà, Phó Viện trưởng Viện Dược liệu Thuốc Trung ương, chuyên gia nghiên cứu và phát triển thuốc mới, Bộ Y tế cho biết thuốc hóa trị và xạ trị điều trị ung thư hiện nay phá hủy các tế bào khỏe mạnh và gây ra các tác dụng phụ (như rụng tóc, buồn nôn, đau đớn, rối loạn tạo máu, suy giảm miễn dịch và tổn thương đến thần kinh…). “Các liệu pháp điều trị ung thư mới được các hãng dược lớn sản xuất, đều khá tốn kém, giá thành cao”, bà nói và thêm rằng đây là lý do việc tìm kiếm các thuốc điều trị ung thư an toàn, hiệu quả có giá thành hợp lý được nhiều quốc gia không ngừng tìm kiếm.

“Việc phát hiện ra phức hợp HAMLET sẽ mở ra hướng điều trị ung thư trong tương lai nếu chúng ta có thể thực hiện được các thử nghiệm lâm sàng kịp thời”, PGS Hà nói. Theo bà, thuốc ung thư mới từ sữa có thể sẽ giải quyết được hai vấn đề lớn là hiệu quả điều trị và tác dụng phụ, đây cũng là thuốc rất tiềm năng trong điều trị dự phòng ung thư trong tương lai gần.TS Trần Thị Hiền hiện công tác tại Khoa Dược, Đại học Y Dược Thái Bình; Khoa ung thư miễn dịch, trường Y, Đại học Lund Thuỵ Điển. Ảnh: NVCC

TS Trần Thị Hiền. Ảnh: NVCC

TS Trần Thị Hiền sinh ra trong gia đình làm nông nghèo tại Yên Thế, Bắc Giang. Ban đầu cô dự định theo học ngành Sư phạm ở quê nhà để tiết kiệm chi phí, nhưng rồi một “sự cố” đã đưa Hiền đến với Đại học Dược Hà Nội vào năm 2002. Hiền tìm thấy tình yêu khoa học khi học năm thứ hai và quyết tâm theo đuổi. Cô nhận bằng thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành độc tính và dược lý miễn dịch tại Khoa Dược, Đại học Chosun, Hàn Quốc. Từ năm 2013, TS Hiền là chuyên gia nghiên cứu cao cấp và giảng dạy tại khoa ung thư miễn dịch, trường Y, Đại học Lund, Thụy Điển. Song song với đó, cô công tác tại Khoa Dược, Đại học Y Dược Thái Bình, thực hiện nghiên cứu khoa học và đào tạo giảng viên từ xa.

Hơn 20 năm làm nghiên cứu, TS Hiền trở thành tác giả và đồng tác giả của 50 bài báo quốc tế, trong đó nhiều công trình đăng trên tạp chí Y khoa hàng đầu thế giới: Nature biotechnology, Nature communications, Nature Reviews Urology và Journal of Clinical Investigation. Cô cũng sở hữu 2 bằng sáng chế quốc tế (cấp năm 2020 và 2021) về phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid, cùng 3 bằng sáng chế tại Việt Nam.

Năm 2015, cô giành Giải thưởng nhà khoa học trẻ dưới 35 tuổi của Quỹ L’oreal-Unesco. Năm 2020, nhóm nghiên cứu của cô nhận được quỹ tài trợ European Union’s Horizon 2020 của Châu Âu (2 triệu EURO) cho thử nghiệm lâm sàng trên ung thư bàng quang và là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên tham gia nghiên cứu và thử nghiệm thành công thuốc ung thư được FDA phê duyệt cho phase 3.

Như Quỳnh

Đưa công nghệ lọc nước nhiễm phèn, mặn về miền Tây

Hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn bằng công nghệ hiện đại, chất lượng cao được Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc trao tặng trường học vùng sâu tỉnh Sóc Trăng.Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy (giữa)  kiểm tra hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy (giữa) kiểm tra hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Sau 3 ngày lắp đặt, hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn được trao tặng cho Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề, huyện Trần Đề, hôm 29/8.

PGS.TS Vũ Đức Lợi – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (Vkist), cho biết đây là hệ thống sử dụng công nghệ lọc nước tân tiến, được nghiên cứu và phát triển chung bởi Vkist và Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc, từ năm 2021.

“Trải qua quá trình thử nghiệm trên nhiều vùng nhiễm mặn và nhiễm phèn khác nhau tại đồng bằng sông Cửu Long, đến tháng 9/2023, Vkist đã tối ưu hóa và hoàn thiện công nghệ này bằng việc tích hợp hệ thống keo tụ, lắng, kết hợp hệ vi lọc, hệ lọc RO và cuối cùng là khứ khuẩn bằng đèn UV trước khi đưa vào bình chứa nước sạch để sử dụng”, ông Lợi nói và cho biết hệ thống được tối ưu hóa có giá thành thấp, sử dụng lâu dài, cho ra sản phẩm chất lượng cao.

Hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn vừa được lắp đặt tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn lắp đặt tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Hệ thống được thiết kế thông minh, lắp đặt trong container 20 feet, công suất 12 m3 mỗi ngày đêm, sử dụng năng lượng mặt trời, vận hành tự động với kinh phí trên 300 triệu đồng. Hệ thống có chức năng xử lý nước phèn, nước mặn thành nước sạch, đạt tiêu chuẩn nước ăn uống theo quy chuẩn của Bộ Y tế.

Tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề, hệ thống được đấu nối với nguồn nước máy để sản xuất ra nước sạch cho học sinh, giáo viên nhà trường uống hàng ngày.

Đây là hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn thứ 3 (sau tối ưu hóa) được lắp đặt tại miền Tây, sau tỉnh Bến Tre. “Chúng tôi mong muốn công nghệ mới này được chuyển giao, sử dụng rộng rãi ở đồng bằng sông Cửu Long, nhằm góp phần thích ứng biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn”, TS Lợi nói.

Ông Trần Sung, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề, cho biết, trường có gần 300 học sinh theo học với 8 lớp từ lớp 6-9 cùng 33 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Hiện tất cả học sinh đều ở nội trú nên nhu cầu sử dụng nước uống khá lớn.Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Năm 2018, khi trường được đưa vào hoạt động cũng được lắp đặt máy lọc nước cho các em sử dụng. Tuy nhiên sau một thời gian máy bị hư hỏng nhiều lần, phải sửa chữa với kinh phí lớn nhưng hiệu quả không lâu dài.

“Học sinh phải mua nước bình loại 5-20 lít để uống hàng ngày, khá tốn kém. Vì thế, việc được hỗ trợ hệ thống máy lọc nước hiện đại, công suất lớn, vận hành bằng năng lượng mặt trời giúp ích cho học sinh rất nhiều trong việc giải quyết nhu cầu nước uống hàng ngày, đỡ tốn kém cho phụ huynh, nhà trường tiết kiệm được chi phí tiền điện vận hành”, ông Sung nói.

An Bình

Nuôi tôm, cua trong hộp nhựa

Nuôi cua biển, tôm tít trong hộp nhựa dùng công nghệ tuần hoàn, không phụ thuộc môi trường, ít hao hụt, giá trị cao… đang được nhiều người dân ứng dụng.

Vùng quê xã Long Khánh, huyện Duyên Hải, Trà Vinh của Trần Minh Nhật, 29 tuổi, có nghề đánh bắt cua biển. Với đam mê làm nông nghiệp, bốn năm trước, Nhật lên mạng tìm kiếm các video trên Youtube hướng dẫn nuôi cua trong hộp nhựa dùng công nghệ tuần hoàn của nước ngoài. Công nghệ này giúp cua không phụ thuộc vào môi trường sống. Hệ thống nước được xử lý, chất lượng ổn định nên cua có tỷ lệ hao hụt thấp.

Nhìn thấy tiềm năng của hướng đi này, năm 2022, Nhật đầu tư 50 hộp nuôi cùng hệ thống tuần với các bể lọc thô, lọc vi sinh, chiếu đèn UV để xử lý nước với giá trị khoảng 15 triệu đồng. Cua giống 50 con chi phí 3 – 5 triệu đồng được Nhật thả nuôi riêng từng hộp.

Thời gian đầu, chưa có kinh nghiệm chọn cua giống, cùng kỹ thuật quản lý hệ thống tuần hoàn, Nhật thất bại vì cua chết nhiều. Không nản chí, Nhật học kinh nghiệm trên mạng, tham gia các khóa tập huấn nuôi cua do địa phương tổ chức. Nhật điều chỉnh các thông số môi trường với độ mặn tự nhiên, pH 7.5 – 8.5, vi sinh bổ sung định kỳ, châm nước hàng tuần vì khu vực nuôi gần sông.Trần Minh Nhật và sản phẩm cua lột hút chân không nuôi bằng hệ thống tuần hoàn giới thiệu tại tỉnh Trà Vinh cuối năm 2023. Ảnh: NVCC

Trần Minh Nhật và sản phẩm cua lột hút chân không nuôi bằng hệ thống tuần hoàn giới thiệu tại tỉnh Trà Vinh cuối năm 2023. Ảnh: NVCC

Việc chọn con giống được Nhật làm kỹ lưỡng, tìm kiếm nhà cung cấp uy tín, lựa cua có độ săn chắc, không xây xát. Sau những lần thất bại, cậu điều chỉnh kỹ thuật, cua phát triển ổn định hơn.

Đến nay, Nhật mở rộng mô hình lên 1.000 hộp nuôi, đầu tư thêm thiết bị sục oxy tươi vào trong nước, máy tách bọt… tổng chi phí 300 triệu đồng. Quy mô nuôi lớn hơn nên mỗi tháng, Nhật thu 180 – 200 kg cua lột và cua cốm, lãi 20 – 30 triệu đồng.

Hơn 4 năm nuôi cua trong hộp, Nhật tính toán, đầu tư 1.000 hộp nuôi khoảng một đến 1,5 năm là thu hồi vốn và có lời. Kể kinh nghiệm nuôi cua thành công, Nhật cho rằng 60% phụ thuộc vào nguồn giống, 40% còn lại là vận hành hệ thống tuần hoàn. “Người nuôi cua trong mô hình này cần có kiến thức nhất định, hiểu biết về công nghệ để điều chỉnh thông số môi trường nước hợp lý, đảm bảo phát triển con cua”, Nhật nói, cho rằng mô hình nuôi cua trong hộp rất tiềm năng phát triển kinh tế. Người dân có thể nuôi ở bất cứ khu vực nào mà không phụ thuộc yếu tố gần biển. Hiện Nhật hướng dẫn ba nông dân khác tại địa phương đầu tư công nghệ, kỹ thuật nuôi, quy mô 300 – 500 hộp. Cua xuất bán được Nhật bao tiêu đầu ra.

Cũng sử dụng công nghệ tuần hoàn, Thạc sĩ Lê Ngọc Hạnh, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, nuôi thử nghiệm tôm tít trong hộp nhựa quy mô hơn 1.000 hộp tại TP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Theo thạc sĩ Hạnh, hệ thống tuần hoàn nuôi tôm tít cơ bản không khác biệt so với nuôi cua. Tuy nhiên, do cua có đặc tính vừa sống dưới nước vừa trên cạn, nên thời gian vận hành hệ thống sục khí oxy ít hơn so với tôm. Ngược lại, tôm tít cần hệ thống tuần hoàn vận hành liên tục để ổn định môi trường. Tôm tít bơi liên tục dưới nước nên ít để lại cặn bẩn, giảm công chăm sóc. Thời gian nuôi tôm tít khoảng 3 – 6 tháng, đạt trọng lượng bán. Tôm tít ở kích cỡ lớn nhất, khoảng 3 – 6 con mỗi kg, giá khoảng 1,2 – 1,5 triệu đồng.

Theo thạc sĩ Hạnh, với chi phí nuôi khoảng 700.000 đồng mỗi kg, người dân có thể thu lời 500.000 đồng – 800.000 đồng. Với quy mô trên 1.000 hộp, sau một vụ đến một năm nuôi có thể hòa vốn chi phí đầu tư máy móc, thiết bị.

Về kinh nghiệm chọn giống, chuyên gia Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, cho biết cua hay tôm tít thường bị yếu sức khỏe và chết bởi nguyên nhân sốc môi trường. Do đó, khi chọn giống cua, người nuôi cần tìm kiếm đơn vị cung cấp có môi trường nuôi ổn định về độ mặn. Cách đánh bắt, vận chuyển cần tránh làm chúng xây xát, tổn thương.

Với tôm tít, không nên chọn con kích thước quá nhỏ vì sẽ kéo dài thời gian nuôi, cần chọn loại 10 – 12 con mỗi kg. Người nuôi cũng không chọn con vừa lột xác xong vì lúc này chúng rất yếu, dễ chết. Việc vận chuyển tôm tít cần cung cấp đủ oxy, có thể cho vào môi trường nuôi trung gian gần giống với hộp nuôi để tôm tít làm quen, giảm tỷ lệ chết do sốc môi trường. “Cần tìm hiểu kỹ quy trình đánh bắt và vận chuyển nơi cung cấp giống. Người nuôi cần yêu cầu nhà cung cấp theo quy trình như trên để đảm bảo con giống khỏe mạnh”, thạc sĩ Hạnh nói.Mô hình nuôi cua biển trong hộp nhựa tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM. Ảnh: Hà An

Mô hình nuôi cua biển trong hộp nhựa tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM. Ảnh: Hà An

Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Liên, Trưởng phòng hỗ trợ công nghệ thủy sản, Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp Nông nghiệp Công nghệ cao (Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM), hệ thống tuần hoàn cơ bản gồm thiết bị trống lọc để tách chất thải, hệ thống lọc sinh học, thiết bị cung cấp oxy, thiết bị khử trùng nước bằng đèn UV. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện nuôi mà đầu tư hệ thống lọc khác nhau. Với những khu vực gần biển, có nguồn nước tự nhiên, có thể định kỳ thay 50% nước bên ngoài giúp người nuôi giảm bớt một số hệ thống lọc để giảm chi phí. Bà cho rằng, trong quá trình nuôi, quan trọng nhất là việc kiểm soát các khí độc trong nước như NH3, NO2 bằng kỹ thuật test nhanh làm hàng ngày. Nếu nồng độ khí độc trong nước quá cao, có thể gây sốc môi trường làm cua chết.

Ngoài cua, tôm tít, hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (Recirculating Aquaculture Systems – RAS) có thể nuôi ghẹ, hải sâm và các loại thủy sản nước ngọt như ba ba, tôm càng xanh… Công nghệ RAS được một số quốc gia như Israel, Hà Lan, Trung Quốc nghiên cứu và ứng dụng gần 30 năm qua. Tại Việt Nam, công nghệ này được nhiều người dân áp dụng nuôi thủy sản hơn 10 năm trở lại đây nhờ nguồn vật liệu, nguyên liệu được cung cấp phong phú, giá thành cạnh tranh hơn.

Theo các chuyên gia, giá mỗi hệ thống RAS tùy thuộc vào loại vật liệu, đầu tư các hệ thống lọc nước. Do lắp trong nhà nên các thiết bị có tuổi thọ 5 – 10 năm hoặc hơn. Chi phí đầu tư cao nên hệ thống RAS phù hợp nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao, ngắn ngày. Công nghệ này giúp tiết kiệm nước, kiểm soát mọi yếu tố đầu vào, điều kiện nuôi và xả thải. Do đó môi trường nuôi được tạo điều kiện để không, hoặc rất ít sử dụng kháng sinh và thuốc. Công nghệ RAS đã được các tổ chức quốc tế như FAO và Eurofish khuyến nghị như một phương pháp nuôi trồng thủy sản bền vững.Hệ thống tuần hoàn nước giúp người nuôi kiểm soát môi trường khi nuôi thủy sản trong hộp. Ảnh: Hà An

Hệ thống tuần hoàn nước giúp người nuôi kiểm soát môi trường khi nuôi thủy sản trong hộp. Ảnh: Hà An

PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hội nuôi biển Việt Nam đánh giá, nuôi thủy sản dùng hệ thống tuần hoàn giúp người nuôi theo dõi sự phát triển từng con trong hộp, đảm bảo yếu tố môi trường nên tỷ lệ hao hụt thấp hơn nhiều so với nuôi truyền thống. Mô hình này theo ông Dũng hoàn toàn có thể nhân rộng, giúp phát triển kinh tế cho người dân. Riêng với cua lột, ông Dũng nói thị trường trong nước và Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc… rất ưu chuộng. Tuy nhiên, ông lo ngại khi số người nuôi tăng lên, dễ dẫn đến tình trạng không đủ cung cấp nguồn giống chất lượng, gây mất cân bằng chuỗi giá trị. Ông cũng đề xuất với cua và các loại thủy khác giá trị khác Nhà nước cần phối hợp doanh nghiệp xây dựng hệ thống chế biến, thực phẩm từ nguồn sản vật giúp tăng giá trị, cung cấp trong nước và xuất khẩu.

Hà An

Vấn đề kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng cầu và quản lý đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao

Việc xây dựng cầu và quản lý đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao đòi hỏi yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ phức tạp, đi qua nhiều địa phương, địa hình phức tạp nên cần xem xét cẩn trọng, kỹ lưỡng… Đây là ý kiến của nhiều chuyên gia, nhà khoa học tại Hội nghị Một số vấn đề về kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng cầu và quản lý đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao do Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải phối hợp với Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu – Đường Việt Nam tổ chức ngày 29/08/2024 tại Hà Nội.

Từ yêu cầu của công trình cầu trên đường sắt tốc độ cao

TS Nguyễn Việt Khoa – Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải cho biết, trên thế giới, mạng lưới đường sắt đã phát triển rộng khắp, được thiết kế với các tiêu chuẩn khác nhau. Hầu hết các mạng lưới này bao gồm hỗn hợp nhiều khổ đường, nhưng với đường sắt khổ 1435 mm có hiệu suất đạt được là tốt nhất. Hơn 50 năm trước, Nhật Bản, Pháp và nhiều quốc gia khác đã đưa ra khái niệm hoàn toàn mới là đường sắt tốc độ cao thay cho việc nâng cấp các hệ thống đường sắt hiện có. Theo TS Nguyễn Việt Khoa, đường sắt tốc độ cao có tốc độ thiết kế 200-350 km/giờ hoặc cao hơn, cung cấp sự nhanh chóng trong vận chuyển hành khách và hàng hóa.

Đồng tình với quan điểm trên, ThS Nguyễn Anh Tú – Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Đường bộ 1 (Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải) cho biết, đường sắt tốc độ cao là một giải pháp giao thông công cộng tương lai cho vùng đô thị, liên vùng và đang là xu thế phát triển giao thông trên thế giới. ThS Nguyễn Anh Tú cho rằng, ở các vùng đô thị đông dân cư, các loại hình giao thông mặt đất như xe bus, tàu thường, tàu điện trở nên khó khả thi bởi sự giao cắt với các phương tiện khác gây ách tắc giao thông, tốc độ vận hành chậm và chiếm dụng đất lớn. Một trong những giải pháp tốt nhất là tàu chạy trên cao. Loại hình này có nhiều ưu điểm như là an toàn cao, khối lượng vận chuyển lớn, không giao cắt với các phương tiện khác, diện tích sử dụng tối thiểu và nếu thiết kế đẹp sẽ mang lại cảnh quan hiện đại cho các đô thị. Tuy nhiên, giá thành xây dựng của hệ thống tàu chạy trên cao đòi hỏi rất lớn.

Toàn cảnh Hội nghị.

PGS.TS Hoàng Hà – Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu – Đường Việt Nam cho rằng, để đáp ứng nhu cầu vận chuyển ngày càng tăng, các đoàn tàu đường sắt được sản xuất theo hướng có chiều dài lớn hơn và tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, tốc độ cao hơn cũng sẽ gây ra tác động lớn hơn cho kết cấu cầu. Do đó, độ an toàn, tin cậy và độ bền khai thác của kết cấu cầu trên đường sắt tốc độ cao được đánh gia là phụ thuộc vào các đặc trưng dao động của kết cấu. Ngoài ra, về chất lượng khai thác còn phải kể đến nguy cơ trật bánh do dao động có biên độ cao hay tác động tâm lý đối với hành khách. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chỉ tiêu quan trọng nhất cần được kiểm soát trong khâu thiết kế các cầu trên đường sắt tốc độ cao là kiểm soát giá trị cực đại của gia tốc dao động theo phương thẳng đứng của hệ dầm mặt cầu. Ủy ban Tiêu chuẩn hóa châu Âu quy định, tốc độ dao động theo phương thẳng đứng tối đa của hệ dầm mặt cầu không vượt quá 3,5 m/sđối với đường có đá balat.

ThS Lưu Hùng Cường – Trung tâm Tư vấn công trình đường sắt bộ (Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận tải) cho biết, so với cầu đường sắt thông thường, cầu đường sắt tốc độ cao có các yêu cầu khắt khe hơn về độ cứng của kết cấu để giảm thiểu biến dạng, tránh rung động quá mức hoặc cộng hưởng khi đoàn tàu chạy qua. Thiết kế cho cầu đường sắt tốc độ cao đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về các vấn đề: yêu cầu đối với chuyển vị và biến dạng xoay của kết cấu nhịp; yêu cầu về tần số tự nhiên của kết cấu nhịp; các tương tác động lực học giữa tàu – đường ray và kết cấu cầu; các tác động giữa kết cấu đường ray hàn liên tục với kết cấu cầu…

Đến việc chủ động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ

TS Trần Bảo Ngọc – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải cho biết, theo Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1769/QĐ-TTg ngày 19/10/2021. Theo đó, có tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam từ ga Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm dài 1.545 km, đường sắt khổ đôi 1.435 mm. Chính phủ đặt mục tiêu năm 2025 sẽ hoàn thành phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và sớm khởi công dự án, ưu tiên thực hiện trước đoạn Hà Nội – Vinh và TP Hồ Chí Minh – Nha Trang. Bộ Giao thông Vận tải xác định đây là dự án đường sắt quan trọng của quốc gia, có quy mô lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ phức tạp, đi qua nhiều địa phương, địa hình phức tạp nên cần xem xét cẩn trọng, kỹ lưỡng, công tác chuẩn bị mất nhiều thời gian, cần sự phối hợp của các bộ/ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học và các cán bộ có kinh nghiệm trong ngành để nghiên cứu, thảo luận, đóng góp cho công nghệ xây dựng, quản lý đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao.

TS Trần Bảo Ngọc – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải phát biểu tại Hội nghị.

Xác định khoa học và công nghệ phải đi trước, thời gian qua Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải đã chủ động nghiên cứu, công bố khoa học và xây dựng một số tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực đường sắt tốc độ cao. Điển hình như: Nghiên cứu tổng quan tình hình phát triển và hệ thống tiêu chuẩn đường sắt tốc độ cao trên thế giới, đề xuất định hướng xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đường sắt tốc độ cao phù hợp với điều kiện Việt Nam; nghiên cứu lựa chọn công nghệ xây dựng đường ray tấm bản áp dụng cho đường sắt tốc độ cao ở Việt Nam; nghiên cứu, lựa chọn các thông số kỹ thuật cơ bản cho đường sắt tốc độ cao phù hợp với điều kiện Việt Nam; nghiên cứu, so sánh các thông số kỹ thuật cơ bản của đường sắt tốc độ cao trên thế giới và lựa chọn, ứng dụng trong tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội – TP Hồ Chí Minh… Bên cạnh đó, Viện cũng đã xây dựng và được Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia ban hành bộ tiêu chuẩn quốc gia về thiết kế cầu đường sắt khổ 1435 mm, vận tốc lên đến 350 km/giờ.

Bà Nguyễn Đức Thị Thu Định – Trường Đại học Giao thông Vận tải cho rằng, việc nghiên cứu, đề xuất xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao tại Việt Nam hiện nay là nhu cầu cần thiết và tất yếu. Việc quyết định lựa chọn công nghệ đoàn tàu theo xu thế nào sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ các nội dung thiết kế tuyến đường sắt tốc độ cao gồm: hạ tầng kết cấu, loại kết cấu nhịp cầu, các giải pháp khai thác và vận hành… Bà Nguyễn Đức Thị Thu Định cho biết, về công nghệ đoàn tàu, công nghệ đoàn tàu chạy trên ray hiện khá phù hợp ở Việt Nam với 2 loại chính là công nghệ đoàn tàu kiểu động lực phân tán và động lực tập trung. Do Việt Nam chưa có tiêu chuẩn thiết kế đường sắt tốc độ cao nên việc thiết kế tuyến đường sắt này có thể tham khảo một số tiêu chuẩn có các ảnh hưởng lớn tới hệ thống đường sắt tốc độ cao trên thế giới như tiêu chuẩn của Nhật Bản, châu Âu, Trung Quốc…

Phong Vũ