Tuyến cáp quang đất VSTN đi qua Việt Nam, Lào, Thái Lan, Malaysia và Singapore, giúp Internet trong nước giảm phụ thuộc vào cáp quang biển.
Chiều 4/8, Tập đoàn VNPT khai trương hệ thống cáp đất quốc tế VSTN – tuyến truyền dẫn hoàn toàn trên đất liền, dài hơn 3.900 km, kết nối từ Đà Nẵng đến các trung tâm dữ liệu lớn trong khu vực ASEAN.
Đây là tuyến cáp đầu tiên do người Việt làm chủ 100%. VSTN được thiết kế nhằm khắc phục hạn chế của cáp biển, vốn thường xuyên gặp sự cố và mất nhiều thời gian khắc phục. Tuyến giúp đơn vị vận hành có khả năng kiểm soát toàn trình, góp phần giảm thiểu rủi ro gián đoạn kết nối Internet quốc tế.
Sơ đồ tuyến cáp đất VSTN nối từ điểm đầu tại Đà Nẵng (Việt Nam), qua lãnh thổ Lào, Thái Lan, Malaysia đến điểm cuối tại Singapore. Ảnh: Trọng Đạt
VSTN sử dụng công nghệ ghép kênh theo bước sóng DWDM, mỗi bước có dung lượng tối thiểu 300 Gbps. Tổng dung lượng thiết kế toàn tuyến 4 Tbps, có thể mở rộng lên 12 Tbps hoặc cao hơn. Hệ thống này phục vụ nhu cầu truyền tải dữ liệu lớn, phù hợp với các dịch vụ số như Internet tốc độ cao, điện toán đám mây, AI, tài chính số, hội nghị trực tuyến.
Theo Tổng giám đốc VNPT Huỳnh Quang Liêm, từ năm 2022 đến nay, hệ thống cáp quang biển ghi nhận gần 40 sự cố, trung bình 10 lỗi mỗi năm. “Có lúc bốn trên năm tuyến cáp biển quốc tế kết nối đến Việt Nam đồng loạt gặp sự cố, làm suy giảm nghiêm trọng lưu lượng quốc tế, khiến VNPT mất 75% dung lượng”, ông nói.
Ông Liêm cho hay, việc khắc phục sự cố cáp biển phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, khiến thời gian xử lý kéo dài. “Thời gian khắc phục từ 2-3 đến 6 tháng. Cá biệt, tuyến AAG có lúc mất 12 tháng để sửa chữa”.
Việc đưa vào vận hành VSTN góp phần đa dạng hóa kết nối ra thế giới và tăng khả năng dự phòng cho hạ tầng viễn thông. Đại diện VNPT cho biết, VSTN đóng vai trò như một “van an toàn” trong hệ sinh thái số quốc gia, giúp giảm tải cho các tuyến cáp biển truyền thống. Tuyến cáp đất liền góp phần đảm bảo kết nối trong các tình huống bất thường do thiên tai, đồng thời đảm bảo sự tự chủ của Việt Nam về công nghệ.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại sự kiện khai trương tuyến cáp quang đất VSTN, chiều 4/8. Ảnh: Minh Sơn
Tại lễ khai trương VSTN, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhận định “đây là hình ảnh sinh động về Một ASEAN, Một ASEAN số”. Theo ông, hạ tầng viễn thông nay đã trở thành hạ tầng số, hạ tầng của nền kinh tế. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo tính an toàn và bền vững.
Ông cho rằng, muốn an toàn, bền vững, Việt Nam phải đa dạng hóa, có nhiều tuyến cáp quang biển, đi nhiều hướng khác nhau, đặc biệt phải có tuyến cáp quang đất liền – vốn có tính hồi phục nhanh.
“Đây là mệnh lệnh của Đảng và Nhà nước về hạ tầng số Việt Nam an toàn và bền vững”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Ông ghi nhận tinh thần “tiến công” của VNPT vì gần 30 năm qua, kể từ khi tham gia làm tuyến cáp đầu tiên vào năm 1996, chưa từng có tuyến cáp quốc tế nào do người Việt làm chủ đầu tư 100%, như VSTN vừa khai trương. Bộ trưởng kỳ vọng sẽ có nhiều tuyến quốc tế do nhà mạng Việt Nam đầu tư, để “hạ tầng số Việt Nam có băng thông siêu rộng, dung lượng siêu lớn, phổ cập, thông minh, công nghệ mở, an toàn, bền vững và xanh”.
Thập kỷ thứ tư của Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân cũng là giai đoạn Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, coi đây là công nghệ chiến lược quốc gia.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng đã có buổi làm việc với Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân, chiều 31/7, vào dịp kỷ niệm 31 năm thành lập đơn vị. Buổi làm việc có sự tham gia của Thứ trưởng Lê Xuân Định, 80 cán bộ công chức, viên chức của Cục và đại diện các đơn vị liên quan.
Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, thực hiện hai chức năng chính: tham mưu, quản lý nhà nước về an toàn an ninh, thanh sát hạt nhân và thúc đẩy việc ứng dụng năng lượng nguyên tử. Cục tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan, trong đó có Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) được Quốc hội thông qua hồi tháng 6. Ngoài ra, đơn vị thực hiện thẩm định, cấp phép và quản lý an toàn an ninh đối với các cơ sở bức xạ; cung cấp thông tin, dữ liệu về an toàn bức xạ hạt nhân trên cả nước, đồng thời là đầu mối hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Tại buổi làm việc, Cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh báo cáo Bộ trưởng về một số kết quả công việc thời gian qua, đồng thời nêu những khó khăn, vướng mắc. Sau 5 tiếng trao đổi, các vấn đề về nhân lực, chuyển đổi số và kinh phí hoạt động của Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân cơ bản đã được lãnh đạo Bộ định hướng, tháo gỡ.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ làm việc với Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân, chiều 31/7. Ảnh: TTTT
Thành lập năm 1994, năm nay, Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân bước sang thập kỷ hoạt động thứ tư. Bộ trưởng đánh giá, khác với giai đoạn trước, đây là thập kỷ Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ công nghệ, đưa công nghệ điện hạt nhân thành chiến lược quốc gia, ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mọi mặt đời sống. Đây cũng là thập kỷ Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân có Cục trưởng không xuất phát từ chuyên môn kỹ thuật mà là người làm quản lý nhà nước, với mong muốn Cục phải đóng vai trò điều phối, thống nhất lực lượng người làm năng lượng nguyên tử ở cả trong và ngoài nước.
Xu thế lớn về an toàn, bức xạ và hạt nhân
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, năng lượng hạt nhân là lĩnh vực có tính quốc tế cao, đòi hỏi Việt Nam phải biết nhìn ra thế giới. Ông chỉ ra năm xu thế lớn đang định hình tương lai của lĩnh vực.
Thứ nhất là tách bạch giữa quản lý an toàn bức xạ và phát triển hạt nhân. Trên thế giới, hai mảng này thường đặt ở hai đơn vị độc lập nhằm đảm bảo sự độc lập tuyệt đối với nhau. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, tại Việt Nam, việc tách bạch có thể mang tính độc lập tương đối, bằng cách thành lập hai phòng ban trong cùng một đơn vị. Mục đích là quản lý theo cấp độ rủi ro, nới lỏng những vấn đề có độ rủi ro thấp để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển. “Thế hệ lò phản ứng thứ tư an toàn hơn, việc quản lý lúc này sẽ cần nhẹ tay hơn”, ông nói.
Xu thế thứ hai là cơ quan quản lý an toàn, bức xạ và hạt nhân cần duy trì sự độc lập tương đối cả về thể chế lẫn kỹ thuật. Bộ trưởng đánh giá cao việc Cục tham gia vào quá trình xây dựng thể chế, tiêu biểu là Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Với vấn đề kỹ thuật, ông lưu ý Cục cũng cần duy trì sự độc lập nhất định, không nên phụ thuộc hoàn toàn vào sự hỗ trợ từ tổ chức bên ngoài như Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Xu thế thứ ba là về năng lực chuyên môn, nhân lực và công nghệ.Cụcan toàn, bức xạ và hạt nhân bắt buộc phải có các mô phỏng thử nghiệm về an toàn, biết sử dụng các công nghệ mới, nhất là giám sát từ xa, có khả năng đào tạo chuyên sâu, phân tích sự cố, ứng phó khẩn cấp…
Thứ tư là tăng tính minh bạch và sự giám sát của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam dự kiến xây dựng nhiều nhà máy điện hạt nhân, cần có quy định cụ thể về việc công khai thông tin, minh bạch báo cáo và để người dân tham gia giám sát.
Cuối cùng, lĩnh vực năng lượng hạt nhân là câu chuyện có tính quốc tế cao,cần phối hợp chặt chẽ, tuân thủ công ước quốc tế.
Những điều cần đổi mới
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới, Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân cần chuyển đổi từ một cơ quan hành chính sang vai trò điều phối chiến lược quốc gia về an toàn bức xạ hạt nhân.
“Cục là tổng chỉ huy các lực lượng. Vai trò điều phối của Cục rất quan trọng”, ông nói. Trong bối cảnh đó, đơn vị phải khẳng định được vị thế là cơ quan quản lý quốc gia, được thể chế hóa, hoạt động độc lập về an toàn bức xạ hạt nhân.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng làm việc với Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân. Ảnh: TTTT
Một trong những yêu cầu cấp thiết Bộ trưởng nêu ra là nâng cấp năng lực đánh giá, giám sát và ứng phó sự cố. Cục cần sớm xây dựng phòng thí nghiệm an toàn bức xạ, thành lập trung tâm điều hành, ứng phó sự cố hạt nhân cấp quốc gia, đi cùng với hệ thống mô phỏng và huấn luyện thực địa.
Về quản lý, Cục phải chuyển đổi số toàn diện, hiện đại hóa quy trình cấp phép, thanh tra, giám sát online, hậu kiểm bằng công nghệ số. Đơn vị cũng sử dụng công nghệ để hình thành bản đồ nguồn phóng xạ và công cụ AI giúp đánh giá rủi ro theo từng vùng, địa phương. Các dữ liệu này phải tích hợp vào hạ tầng số quốc gia, đồng bộ và kết nối với các bộ, ngành khác.
Cục an toàn, bức xạ và hạt nhân nên tăng cường năng lực chuyên sâu. Điều này có thể thực hiện thông qua cơ chế luân chuyển cán bộ từ Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam về Cục và ngược lại, hoặc điều người dưới dạng biệt phái. Song song, Cục được giao thiết lập mạng lưới chuyên gia về năng lượng hạt nhân trong và ngoài nước để tham vấn về chuyên môn, chính sách.
Về mặt hội nhập, Cục cần chủ động mở rộng hợp tác quốc tế, thể hiện rõ vai trò đầu mối tổng hợp quốc gia trong lĩnh vực. Bộ cũng giao Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia phối hợp với Cục an toàn, bức xạ và hạt nhân chủ động lập kế hoạch xây dựng các tiêu chuẩn trong lĩnh vực.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng và Thứ trưởng Lê Xuân Định thống nhất yêu cầu Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân đưa ra các báo cáo chuyên môn, chuyên đề, với tần suất hàng tháng nhằm thể hiện vai trò, trách nhiệm của một đơn vị tham mưu cho lãnh đạo Bộ.
Vai trò trong dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, Bộ trưởng nhấn mạnh vai trò đặc biệt của Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân như một trụ cột điều phối an toàn quốc gia. Ông một lần nữa nhấn mạnh vai trò điều phối của Cục, là đầu mối kết nối giữa các lực lượng chuyên môn trong nước, các tổ chức như Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), cũng như các bộ, ngành liên quan.
Theo Bộ trưởng, việc đầu tiên và quan trọng là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý. Dù Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua, Cục cần làm tiếp việc cho ra đời các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, cùng với các quy chuẩn kỹ thuật về thiết kế, xây dựng, vận hành nhà máy điện. Song song đó là nội luật hóa các điều ước quốc tế, bằng cách thuê, đặt hàng nguồn lực bên ngoài để giảm tải cho đơn vị.
Bộ trưởng yêu cầu Cục phát triển năng lực đánh giá và giám sát ở cấp quốc gia về an toàn bức xạ hạt nhân cho nhà máy điện nguyên tử, đầu tư vào các mô hình mô phỏng sự cố, hệ thống phân tích an toàn, quản lý rủi ro, phần mềm chuyên dụng và cần có một trung tâm dữ liệu độc lập phục vụ công tác giám sát. Đặc biệt, cần hình thành trung tâm chỉ huy ứng phó sự cố hạt nhân quốc gia, kết nối trực tiếp với nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận cũng như hệ thống quan trắc phóng xạ và cảnh báo đa cấp trên toàn quốc.
Tiếp theo, đơn vị phải xây dựng lộ trình cấp phép, cơ chế kiểm tra, hậu kiểm, để có trong tay “bản đồ” về việc thực hiện nhà máy điện hạt nhân, theo từng bước, từng công việc và từng vai trò cụ thể. Bộ trưởng gợi ý thiết lập quy trình theo năm bước, kết hợp việc tổ chức các đoàn kiểm tra, đánh giá theo từng giai đoạn, cùng với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế.
Một trong những vấn đề được Bộ trưởng lưu ý là truyền thông và minh bạch thông tin. Điện hạt nhân luôn đi kèm với những nỗi lo lắng trong xã hội, nhất là với người dân ở khu vực đặt nhà máy. Vì vậy, hồ sơ an toàn, kết quả thanh tra, báo cáo giám sát cần được công bố công khai, dễ hiểu và có kế hoạch truyền thông cụ thể cùng ngân sách riêng để thực hiện.
Bộ trưởng giao Cục xây dựng một đề án nhân lực tổng thể phục vụ chương trình điện hạt nhân, đào tạo chuyên gia, thanh tra đánh giá an toàn, lực lượng kỹ sư vận hành, công nhân kỹ thuật và cả những người làm công tác bảo đảm an toàn. Từng vị trí cần được chuẩn hóa về khung năng lực, số lượng và lộ trình đào tạo. “Tóm lại là vẽ ra một bản đồ nhân lực quốc gia cho ngành điện hạt nhân, tránh tình trạng mỗi đơn vị nói một con số”, Bộ trưởng nói.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực an toàn bức xạ
Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố con người, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng yêu cầu Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân phải hình thành hệ sinh thái đào tạo bền vững, chuyên nghiệp và mang tính quốc tế hóa cao, đủ sức đảm đương vai trò quản lý quốc gia trong lĩnh vực điện hạt nhân, an toàn bức xạ.
Việc đầu tiên là xây dựng lực lượng nòng cốt về kỹ thuật an toàn điện hạt nhân, đi kèm một đội ngũ nhân lực đa ngành, bao gồm chuyên gia kỹ thuật, chính sách, pháp lý, quản trị rủi ro, truyền thông… Điều này nhằm khắc phục tình trạng chỉ chú trọng đến nhân sự kỹ thuật mà bỏ quên những thành phần nhân sự khác, vốn cũng đóng vai trò quan trọng và cần được quan tâm.
Song song với xây dựng lực lượng, Cục cần chuẩn hóa các vị trí việc làm nội bộ, làm rõ khung năng lực cho từng vị trí chuyên môn. Bộ trưởng cũng đề xuất thành lập một hội đồng chuyên gia quốc gia về điện hạt nhân để cố vấn cho Cục trong các vấn đề chuyên môn phức tạp, xây dựng cơ sở dữ liệu về mạng lưới chuyên gia quốc tế và các chương trình đào tạo, cấp chứng chỉ quốc gia về an toàn bức xạ hạt nhân.
Bộ trưởng nêu tầm nhìn về việc đưa Việt Nam trở thành trung tâm đào tạo, cung ứng nhân lực điện hạt nhân và an toàn bức xạ hạt nhân cho khu vực. Đây không chỉ là cách nâng cao vị thế quốc gia, bởi “tự nhận việc này thì trách nhiệm sẽ tăng lên, yêu cầu quốc tế lớn hơn, nhưng đó là cách để mình tốt lên”, ông nói.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ chụp ảnh cùng 80 cán bộ, công chức, viên chức Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân, chiều 31/7. Ảnh: TTTT
Định hướng phát triển năng lượng nguyên tử vì hòa bình
Bộ trưởng xác định ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình không chỉ là câu chuyện của công nghệ, mà phải bắt đầu từ việc kiến tạo thể chế. Việt Nam cần sớm xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển năng lượng nguyên tử, trong đó có việc tham mưu chính sách, chỉ ra những việc cần làm và phân vai, phân việc rõ cho các bộ, ngành, đơn vị.
“Những tư tưởng của chiến lược năng lượng nguyên tử quốc gia phải lồng ghép được vào trong chiến lược an ninh năng lượng và Quy hoạch điện VIII”, ông lưu ý.
Một trong những việc cần làm là xây dựng hệ thống thể chế thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử, tạo cơ chế thuận lợi cho doanh nghiệp, viện nghiên cứu, bệnh viện ứng dụng công nghệ bức xạ, hợp pháp hóa các mô hình mới, tức xây dựng cơ sở pháp lý, ví dụ hình thành trung tâm chiếu xạ tư nhân, sản xuất đồng vị tư nhân, thuê ngoài dịch vụ phân tích hạt nhân. Ông cũng lưu ý Cục rà soát, tạo hành lang pháp lý cho việc đầu tư lò phản ứng hạt nhân module nhỏ (SMR).
Việc phát triển và điều phối các chương trình ứng dụng quốc gia về năng lượng, đồng vị phóng xạ cho các ngành nông nghiệp, y học, môi trường… là định hướng tiếp theo được Bộ trưởng nhấn mạnh.
Ông cũng nhấn mạnh việc tăng cường hợp tác quốc tế. Cục cần làm tốt vai trò đầu mối phối hợp với IAEA, đồng thời nên đề xuất các chương trình hợp tác ở cấp độ cao hơn, tham gia sâu vào các dự án hợp tác đa phương, đưa người Việt Nam, không chỉ cán bộ quản lý mà cả nhà khoa học, doanh nghiệp tham gia vào các tổ chức quốc tế.
Để thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, Bộ trưởng yêu cầu sớm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn liên quan, bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật, mô hình tài chính, nhân lực và hệ thống phòng thí nghiệm quốc gia.
Các chương trình đào tạo về việc ứng dụng năng lượng nguyên tử cũng cần được chuẩn hóa. Bên cạnh đó, Cục an toàn, bức xạ và hạt nhân phải tăng cường ngân sách cho hoạt động truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Lĩnh vực năng lượng nguyên tử Việt Nam đang đứng trước ngưỡng chuyển mình quan trọng. Bộ trưởng kỳ vọng Cục An toàn, bức xạ và hạt nhân nhận thức rõ sứ mệnh mới, tìm ra cách làm, cách tiếp cận mới, áp dụng công nghệ, trợ lý ảo để giảm tải công việc, nâng cao năng suất và tối ưu nguồn lực. “Điều quan trọng là phải ra được kết quả cuối cùng”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
V2000CG CarryAll, máy bay điện cất hạ cánh thẳng đứng (eVTOL) do Trung Quốc tự phát triển, hoàn thành chuyến giao hàng ngoài khơi đầu tiên hôm 3/8.
Máy bay cất cánh từ một bãi phóng trên đất liền ở thành phố Thâm Quyến, miền nam Trung Quốc, mang theo hàng hóa như trái cây tươi và thiết bị y tế khẩn cấp. Sau chuyến bay kéo dài 58 phút trên mặt nước, nó đáp xuống một giàn khoan dầu khí ngoài khơi cách bờ 150 km, hoàn thành nhiệm vụ vượt biển.
Máy bay điện V2000CG CarryAll hoàn thành chuyến giao hàng ngoài khơi đầu tiên tại thành phố Thâm Quyến ngày 3/8. Ảnh: CMG
Theo Ren Yongyi, Phó giám đốc phòng điều phối tại chi nhánh Thâm Quyến của Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC), eVTOL mang lại những lợi thế rõ rệt so với các phương pháp vận chuyển hàng hóa truyền thống bằng tàu thủy và trực thăng như chi phí vận hành thấp hơn, thời gian phản ứng nhanh hơn, không phát thải, hành trình êm ái hơn và có thể hạ cánh trong không gian hạn chế.
Suốt nhiều năm, các giàn khoan dầu ngoài khơi Trung Quốc chủ yếu dựa vào tàu thủy để vận chuyển hàng hóa, mỗi chuyến thường kéo dài hơn 10 tiếng. Trong trường hợp khẩn cấp, trực thăng sẽ được sử dụng, nhưng chi phí vận hành cao hơn đáng kể.
“Chuyến bay thử nghiệm mới cho thấy sự kết hợp giữa công nghệ hàng không tiên tiến, kinh nghiệm vận hành với nhu cầu thực tế của các hoạt động ngoài khơi”, ông Ren nhận định. Chuyến bay cũng chứng minh tiềm năng của công nghệ hàng không tầm thấp trong việc chuyển đổi những ngành công nghiệp truyền thống như ngành năng lượng, đồng thời mở ra một chương mới trong lĩnh vực logistics ngoài khơi và trên bờ.
V2000CG CarryAll do startup công nghệ AutoFlight tại Thượng Hải sản xuất. Chiếc máy bay đầu tiên với chứng nhận đầy đủ được giao cho người mua tại Côn Sơn, tỉnh Giang Tô hôm 22/7. Máy bay chạy hoàn toàn bằng điện, có trọng lượng cất cánh tối đa hai tấn, sức chở 400 kg, tốc độ hành trình tối đa 200 km/h và tầm bay 200 km.
Theo Global Times, đến năm 2030, nền kinh tế tầm thấp của Trung Quốc dự kiến đạt 417 tỷ USD, với các ứng dụng đổi mới trong môi trường hàng hải sẽ trở thành động lực tăng trưởng quan trọng.
Camera an ninh ngoài trời của Tapo có độ phân giải 2K, tích hợp hai đèn pha 2.800 lumen có thể điều chỉnh độ sáng và tự động kích hoạt khi phát hiện chuyển động
C720 là camera ngoài trời cao cấp nhất của Tapo, thương hiệu con của TPLink. Model có giá 2,6 triệu đồng, được thiết kế gắn trần nhà hoặc tường với khả năng chống nước IP65. Không có thiết kế xoay 360 độ nhưng do tích hợp hai đèn pha, sản phẩm có kích thước lớn hơn so với các mẫu camera an ninh hiện có trên thị trường.
Hai đèn pha có độ sáng tối đa 2.800 lumen với khả năng chiếu xa 10 mét, giúp người dùng luôn có hình ảnh màu khi cần, thay vì chỉ có ảnh hồng ngoại. Phía dưới camera có một cảm biến chuyển động với góc rộng 270 độ và sẽ tự động kích hoạt đèn pha khi phát hiện chuyển động.
Camera của Tapo chỉ hỗ trợ kết nối wifi, không sử dụng dây LAN nên lắp đặt thuận tiện hơn. Phần camera sử dụng cảm biến 4 megapixel với khả năng ghi hình 2K, độ phân giải cao giúp hình ảnh sắc nét và hữu dụng hơn khi cần zoom.
Sản phẩm hỗ trợ hai cách lưu trữ bằng thẻ nhớ và cloud, đảm bảo an toàn cho dữ liệu khi một trong hai gặp sự cố. Tapo cho dùng thử miễn phí tính năng lưu trên cloud một tháng, sau đó phải trả phí.
Trên model tích hợp loa và micro, có thể gọi điện hai chiều hay phát ra âm thanh cảnh báo. Ngoài âm thanh mặc định, người dùng có thể sử dụng âm thanh mà mình thích để đặt làm cảnh báo.
C720 chỉ có góc nhìn 150 độ, nhưng camera và hai đèn pha có thể điều chỉnh góc quay và chiếu sáng linh hoạt để bao quát không gian lớn như gara, sân nhà. Người dùng có thể lắp thêm camera phụ để đảm bảo góc quan sát tối đa.
Sản phẩm có thể tùy chỉnh và điều khiển thông qua ứng dụng Tapo. Người dùng cũng có thể thiết lập khu vực cần cảnh báo thay vì toàn bộ khung hình. Công nghệ AI trên Tapo C720 có thể phát hiện chính xác vật thể là người, thú cưng, xe để loại bỏ những cảnh báo không cần thiết.
Máy bay X-37B của Lực lượng Không gian Mỹ sẽ thực hiện nhiệm vụ thứ tám với mục tiêu chứng minh khả năng định vị, dẫn đường và đo thời gian chính xác bằng cảm biến lượng tử.
Máy bay X-37B có kích thước bằng 1/4 tàu con thoi của NASA. Ảnh: Space
Theo Wired, Lực lượng Không gian Mỹ thông báo kế hoạch phóng máy bay vũ trụ có hình dáng giống tàu con thoi X-37B trong nhiệm vụ thứ tám của chương trình. Phóng trên tên lửa Falcon 9, dự kiến X-37B sẽ cất cánh sớm nhất vào ngày 21/8 từ Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở Florida. Trước đó, trong chuyến bay gần nhất kết thúc hồi tháng 3, phương tiện đã được phóng lần đầu trên tên lửa Falcon Heavy, giúp bay vượt khỏi quỹ đạo thấp của Trái Đất và đạt quỹ đạo hình elip cao.
Trong 15 năm qua, Lực lượng Không gian Mỹ chủ yếu giữ im lặng về mục đích hoạt động của máy bay vũ trụ này cũng như giữ bí mật về khối hàng và cung cấp thông tin hạn chế về mỗi chuyến bay. Tuy nhiên, đối với chuyến bay sắp tới mang tên OTV-8, X-37B sẽ bay với module dịch vụ để mở rộng khả năng thí nghiệm, cho phép chở hàng từ Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Không quân và Đơn vị thử nghiệm sáng kiến quốc phòng.
Mục tiêu của nhiệm vụ bao gồm thử nghiệm công nghệ liên lạc laser giữa các vệ tinh băng thông cao, đánh dấu bước tiến quan trọng trong khả năng của Lực lượng Không gian Mỹ nhằm tận dụng những mạng không gian thương mại, theo Tướng Chance Saltzman, Tư lệnh Lực lượng Không gian Mỹ. X-37B sẽ thúc đẩy phát triển công nghệ định vị mới dựa trên nhiễu sóng điện từ với cảm biến quán tính lượng tử có hiệu suất cao nhất từng được thử nghiệm trong không gian.
Boeing từng thử nghiệm một đơn vị đo lường quán tính lượng tử trên máy bay thông thường, sử dụng giao thoa kế nguyên tử để phát hiện chuyển động quay và tăng tốc. Hiện nay, phiên bản cao cấp của công nghệ này sẽ được đưa vào không gian để chứng minh tính khả thi. Thử nghiệm trên máy bay X-37B hướng tới thể hiện khả năng định vị, dẫn đường và đo thời gian chính xác trong môi trường không có dịch vụ GPS. Cảm biến quán tính lượng tử cũng có thể được sử dụng gần Mặt Trăng hoặc khám phá địa điểm xa hơn trong hệ Mặt Trời.
Hai chiếc X-37B đang hoạt động của Lực lượng Không gian Mỹ đều do Boeing chế tạo, dài 9 m, bằng khoảng 1/4 chiều dài tàu con thoi của NASA. Máy bay X-37B thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 4/2010. Kể từ đó, hai máy bay vũ trụ không người lái đã thực hiện một loạt chuyến bay dài hơn. Chiếc máy bay đầu tiên thực hiện chuyến bay dài nhất và gần đây nhất từ năm 2020 đến năm 2022 trong thời gian 908 ngày. Chiếc thứ hai bay gần đây hơn, hạ cánh tại Căn cứ Lực lượng Không gian Vandenberg vào ngày 7/3 sau 434 ngày trên quỹ đạo.
Các nhà chức trách tích hợp hệ thống chống ngập lụt bên dưới một công viên giáp biển, có thể chịu những cơn bão 100 năm có một.
Công viên Wagner sau khi cải tạo. Ảnh: Cơ quan Quản lý Battery Park City
Công viên Wagner tại khu phố Battery Park City mở cửa trở lại hôm 29/7 sau hai năm cải tạo nhằm bảo vệ khu vực Lower Manhattan khỏi ngập lụt ven biển. Là một phần của dự án Battery Coastal Resilience, phần lớn diện tích 1,4 hecta của công viên được nâng cao thêm 3 m để che giấu tường chắn lũ dưới bãi cỏ trung tâm giúp ngăn sóng trào.
Được thiết kế bởi AECOM kết hợp với Cơ quan Quản lý Battery Park City, công viên Wagner hiện nay có hệ thống rào chắn lũ tích hợp vào cảnh quan để ngăn sóng trào trong tương lai và mực nước biển dâng cao. Công viên cũng có hệ thống quản lý nước mưa nâng cấp, sử dụng địa hình và dẫn nước trực tiếp vào hệ thống tối đa hóa thu thập và tái sử dụng.
Các vật liệu bền vững như đá, gỗ và rãnh thoát nước từ công viên ban đầu được tái sử dụng trong quá trình cải tạo. Những vật liệu lát mới được chọn để giảm hiệu ứng đảo nhiệt, kèm theo hệ thống chiếu sáng tiết kiệm điện chạy bằng năng lượng mặt trời, cải thiện tầm nhìn ban đêm trong khi giảm độ chói.
Công viên bao gồm 4 hệ sinh thái khu vực: cửa sông thủy triều, đồng cỏ biển, rừng biển và rừng gỗ trên cao. Những cảnh quan bản địa này giúp giảm sử dụng nước, đòi hỏi bảo trì ít hơn và hỗ trợ đa dạng sinh học địa phương. Hệ thống tưới ngầm nâng cấp giảm tiêu thụ nước tới hơn 30%.
Dự án Battery Coastal Resilience là một phần của sáng kiến Lower Manhattan Coastal Resiliency (LMCR) trị giá 1,7 tỷ USD, nhằm bảo vệ khu vực Lower Manhattan khỏi ngập lụt trong tương lai. Kế hoạch lớn hơn này bao gồm nâng cấp cơ sở hạ tầng ven biển và cải thiện hệ thống quản lý nước mưa trong khu vực.
Kế hoạch chuyển đổi bắt đầu hơn một thập kỷ trước sau khi bão Sandy tàn phá khu vực Lower Manhattan. Sóng trào cao 4 m tràn tới khu Battery Park City ở mũi phía nam hòn đảo. Công viên Wagner nằm cạnh đó nhưng ở độ cao lớn hơn và tránh được ngập lụt do bão Sandy nhưng vẫn nằm trong vùng đồng bằng ngập lũ.
Thành phố New York nhận thấy các cơn bão to đang trở nên phổ biến hơn do biến đổi khí hậu, gây ra cả sóng trào và mưa lớn. Thiết kế mới của công viên Wagner dựa trên mức lũ có thể xảy ra vào những năm 2050 khi mực nước biển dâng lên. Bức tường chắn lũ sẽ kết nối với các dự án khác ở phía bắc và nam, bảo vệ các khu dân cư lân cận khỏi ngập lụt.
Chuột mào châu Phi tích tụ độc tố từ cây mũi tên độc trong những sợi lông, giúp chúng tự vệ khi động vật săn mồi tấn công.
Chuột mào châu Phi. Ảnh: Discover Wildlife
Theo Wildlife Discover, chuột mào châu Phi (Lophiomys imhausi) là một loài vật hiếm gặp và cực kỳ nguy hiểm. Đây là loài chuột duy nhất có độc được biết đến trên thế giới và là động vật có vú duy nhất tích trữ độc tố thực vật để sử dụng như cơ chế phòng vệ.
Một đặc điểm độc đáo khác của chuột mào là khả năng giết chóc của nó. Nó là loài chuột duy nhất sử dụng độc tố từ loài khác để phòng vệ thông qua một số thích nghi tiến hóa.
Đầu tiên, chuột mào ăn vỏ cây mũi tên độc châu Phi (Acokanthera schimperi). Vỏ, rễ, thân, lá và hạt của cây này chứa acovenoside A và ouabaine, hóa chất kích thích tim (cardenolide). Ở liều nhỏ, những hóa chất này có thể sử dụng cho mục đích y học, nhưng ở liều lớn hơn, chúng gây ra tác động nguy hiểm như nôn mửa, co giật, khó thở, thậm chí ngưng tim.
Tiếp theo, chuột mào liếm lông dọc theo các mảng da ở hai bên bờm của nó, truyền nước bọt chứa glycoside kích tim từ cây mũi tên độc châu Phi. Những sợi lông này có cấu trúc rất đặc biệt với lớp ngoài dạng tổ ong và lớp trong là sợi dài thẳng đứng. Cấu tạo như vậy khiến chúng rất phù hợp để hấp thụ chất lỏng, phân tán bên trong và lưu trữ.
Nếu một kẻ săn mồi phớt lờ tín hiệu cảnh báo từ màu lông và cố gắng tấn công, phần lông lộ ra sẽ giải phóng hợp chất độc hại vào miệng chúng và nhanh chóng ngấm vào máu. Đây là biện pháp tự vệ hiệu quả đối với những kẻ thù tự nhiên của chuột mào như lửng mật, linh miêu tai đen, mèo serval, linh cẩu và báo hoa mai.
Chuột mào châu Phi trưởng thành dài 360-530 mm tính từ đầu đến đuôi. Chiếc đầu nhỏ của chuột mào phủ lớp lông ngắn màu đen, trong khi cơ thể và đuôi có lớp lông tơ dày màu xám trắng và lông bảo vệ dài hơn có màu trắng hoặc đen ở chóp, khiến nó trông giống con chồn hôi nhỏ. Dải lông dài màu đen và trắng kéo dài từ đầu đến gốc đuôi chính là nguồn gốc tên gọi của chuột mào châu Phi. Khi bị đe dọa, nó dựng lên phần bờm, hiển thị màu sắc cảnh báo và để lộ những sợi lông đặc biệt chứa đủ độc tố để hạ gục bất kỳ kẻ thù nào.
Chuột mào châu Phi sống trong rừng, đồng cỏ cao và vùng cây bụi, ưa thích địa hình đá và làm tổ trong thân cây rỗng, hang hốc ở Somalia, Ethiopia, Sudan, Tanzania, Kenya, Djibouti và Eritrea. Nó chủ yếu sống đơn độc, đôi khi sống trong theo gia đình nhỏ gồm con đực, con cái và con non. Chuột mào cái đẻ 1-3 con/lứa.
Chế độ ăn ưa thích của chuột mào châu Phi chủ yếu là thực vật như lá và trái cây, dù nó cũng ăn thịt, côn trùng và rau củ. Đặc biệt, nó có cấu trúc dạ dày tương tự động vật nhai lại như bò. Dạ dày 4 ngăn chứa nhiều vi khuẩn tiêu hóa cho phép nó xử lý và phân hủy thức ăn.
Ông Navi Radjou, cố vấn về đổi mới sáng tạo tại Thung lũng Silicon, nhận định sự thiếu thốn sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gợi ý Việt Nam đi theo mô hình R&D của Ấn Độ để phát triển.
Chia sẻ được ông Radjou đưa ra tại Diễn đàn Nghiên cứu và Phát triển Việt Nam – R&D Forum 2025 do AVSE Global tổ chức ngày 30/7 tại Ninh Bình. Ông hiện là cố vấn hàng đầu trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Năm 2021, ông được tổ chức Thinkers50 (Anh) ghi nhận là một trong 50 nhà tư tưởng quản trị có ảnh hưởng nhất thế giới. Ông đồng hành và tư vấn cho hàng trăm lãnh đạo doanh nghiệp toàn cầu về chiến lược phát triển bền vững, tác giả cuốn sách về đổi mới sáng tạo Jugaad Innovation với hơn 200.000 bản được bán ra.
Navi Radjou, chuyên gia về đổi mới sáng tạo, chia sẻ tại sự kiện R&D Forum 2025 tại Ninh Bình, ngày 30/7/2025. Ảnh: Lưu Quý
“Tôi học được từ rất sớm rằng trong một thế giới khan hiếm, bạn phải học cách làm tốt hơn với ít hơn”, ông nói. “Tuy nhiên, cũng chính sự thiếu thốn lại mở ra cánh cửa sáng tạo. Khi đặt ra giới hạn về tài nguyên, bạn sẽ không còn giới hạn về sáng tạo”.
Từ trải nghiệm lớn lên trong thiếu thốn tại Ấn Độ đến quan sát mô hình phát triển ở phương Tây trong quá trình làm việc tại Thung lũng Silicon, Radjou cho rằng giới hạn nguồn lực có thể kích thích đổi mới sáng tạo.
Ông dẫn chứng ngành dược phẩm Mỹ, nơi chi tiêu R&D tăng gấp 10 lần trong 30 năm, nhưng lợi nhuận đầu tư lại giảm. “Điều đó có nghĩa họ đang đầu tư ngày càng nhiều vào việc phát triển thuốc, nhưng không có gì thực sự tạo ra tác động xã hội lớn”, ông nhấn mạnh, đồng thời lập luận rằng việc đầu tư lớn vào R&D không phải lúc nào cũng tương quan với hiệu suất tài chính hay kinh tế.
Chuyên gia cũng so sánh ngân sách hàng năm của Cơ quan Vũ trụ Ấn Độ bằng số tiền NASA chi trong ba tuần, nhưng họ vẫn đạt được một số thành tựu tương đương. Chẳng hạn, Ấn Độ đưa tàu vũ trụ lên quỹ đạo Sao Hỏa (Mangalyaan) vào năm 2015 với chi phí 74 triệu USD, chỉ bằng một phần mười so với tàu Maven của NASA (670 triệu USD).
Vấn đề này từng được Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhắc đến trong cuộc làm việc với Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cuối tháng 5. Khi đó, ông đánh giá nhiều startup có giấc mơ vươn tầm thế giới nhưng gặp khó khăn về vốn. Từ những tấm gương thành công của doanh nghiệp Việt khi vươn ra thế giới, ông khuyên các dự án không nên ngại khó, bởi “một trong những tài sản lớn họ có là sự đói khát”.
Quảng cáo
“Khó khăn quá có thể giết chết rất nhiều ý tưởng, nhưng dễ quá cũng có thể thành đốt tiền. Đừng ngại những cái ban đầu khởi sự khó khăn”, ông nói.
Mô hình nghiên cứu và phát triển
Từ những trải nghiệm trên, ông Radjou cho rằng mô hình nghiên cứu và phát triển của thế kỷ 21 xoay quanh ba yếu tố: tiết kiệm, linh hoạt và bền vững. “Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một mô hình như vậy”, ông nói.
Mô hình R&D trong thế kỷ 21 được ông Navi Radjou đưa ra. Ảnh chụp màn hình
Về tiết kiệm (frugal), ông gợi ý thay vì đầu tư vào công nghệ mới, lựa chọn khôn ngoan hơn là tận dụng và tái mục đích các công nghệ hiện có để tạo ra giá trị lớn hơn, gọi đây là “nền kinh tế tri thức tuần hoàn”.
Ông lấy ví dụ về HeartFight Technologies, một startup ở Đại học Cambridge (Anh), đã phát triển một thiết bị phát hiện sớm suy tim thông qua mắt cá chân bị sưng. Điều đặc biệt của dự án là tái sử dụng thuật toán AI nhận dạng khuôn mặt để phân tích hình ảnh mắt cá chân, từ đó giúp giảm chi phí chăm sóc sức khỏe.
Về linh hoạt (agile) trong R&D, ông đề xuất đưa giới học thuật và công nghiệp xích lại gần nhau hơn, thậm chí “cùng đặt trung tâm R&D của doanh nghiệp bên trong khuôn viên trường đại học”. Một ví dụ điển hình là Công ty vật liệu xây dựng Saint-Gobain đặt trung tâm R&D trong Viện Công nghệ Ấn Độ năm 2012. Việc này giúp các kỹ sư Saint-Gobain tương tác thường xuyên với nhà nghiên cứu đại học, đẩy nhanh quá trình từ khoa học cơ bản đến kinh doanh một cách nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.
Cuối cùng, về tính bền vững (sustainable), Radjou đưa ra ý tưởng đặt phòng thí nghiệm R&D bên trong tự nhiên. Ông đề cập mô hình công viên khoa học và công nghệ Guam Brazil, nơi các nhà nghiên cứu và 40 công ty làm việc cùng nhau để nghiên cứu sản phẩm dựa trên rừng, biến chúng thành sản phẩm giá trị cao. Ông gọi đây là “kinh tế sinh học” (bioeconomy), một lĩnh vực được dự báo đạt 10 nghìn tỷ USD trong 10 năm tới. Radjou tin rằng Việt Nam, với sự đa dạng sinh học phong phú, có thể tiên phong mô hình này.
“Câu hỏi đặt ra là có thể làm điều đó rẻ hơn, nhanh hơn, tốt hơn không? Có, và tôi nghĩ các quốc gia như Ấn Độ và Việt Nam có thể giúp ích”, ông nói. “Việt Nam cũng có thể trở thành trung tâm R&D toàn cầu, nơi cho thế giới thấy cách đơn giản hóa mọi thứ mà vẫn tạo ra sự đổi mới”.
Tương tự Việt Nam đặt mục tiêu thành nước phát triển vào năm 2045, Ấn Độ đặt mục tiêu này vào năm 2047. Theo Radjou, hai nước có cơ hội không chỉ “nhảy cóc” trên bảng xếp hạng thế giới, mà còn “mở đường” cho hướng phát triển hoàn toàn mới, đóng góp không chỉ vào tăng trưởng kinh tế mà còn cho sự hài hòa xã hội và sinh thái lớn hơn.
“Đây có thể là cơ hội lịch sử để Việt Nam không chỉ nhảy cóc, mà còn thay thế một mô hình R&D mới sẽ tiết kiệm, linh hoạt và bền vững”, Radjou nhấn mạnh.
Tại diễn đàn, ông Nguyễn Đức Khương, Chủ tịch Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global), đánh giá đổi mới sáng tạo giúp đưa các nghiên cứu thành sản phẩm và mang đến giá trị cống hiến cho xã hội, cho doanh nghiệp, xa hơn nữa là đóng góp thế giới. Theo ông, Việt Nam có những thách thức, như chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, nhưng “nếu trở thành cường quốc về những công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam có thể đóng góp sâu sắc cho sự phát triển của thế giới”.
Tại Việt Nam, đổi mới sáng tạo cùng khoa học công nghệ và chuyển đổi số được xác định là động lực then chốt nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo, thể hiện qua việc Luật Khoa học công nghệ được phát triển thành Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
“Nếu ngành khoa học và công nghệ được kỳ vọng đóng góp 4% vào tăng trưởng GDP, phần đóng góp từ đổi mới sáng tạo chiếm 3%, trong khi khoa học công nghệ chiếm 1%”, Bộ trưởng nói.
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ 30 công nghệ trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, vũ trụ, thông tin trong giai đoạn 2025-2030.
Mục tiêu được đưa ra tại Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 9 nhiệm kỳ 2025-2030 ngày 29/7. Đại hội có sự tham dự của Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng.
Trong nhiệm vụ mới, Đảng bộ Viện xác định 6 chỉ tiêu cụ thể về thực hiện nhiệm vụ, gồm: Có bước đột phá về chất lượng nghiên cứu cơ bản, phấn đấu tăng hơn 50% số lượng công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín, có chỉ số ảnh hưởng cao so với nhiệm kỳ 2020-2025.
Viện đặt mục tiêu làm chủ ít nhất 30 công nghệ tiên tiến, công nghệ lõi, công nghệ chiến lược trong các lĩnh vực chế tạo vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ biển, công nghệ vũ trụ… Ngoài ra, số lượng bằng sở hữu trí tuệ được kỳ vọng tăng 50% so với nhiệm kỳ 2020-2025; duy trì các nhóm nghiên cứu mạnh hiện có và phát triển thêm ít nhất 20 nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản; chất lượng đào tạo đại học và sau đại học đạt chuẩn quốc tế; đến năm 2030, phấn đấu 9 trong số 12 tạp chí của Viện Hàn lâm đạt chuẩn Web of Science/Scopus.
Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 9, nhiệm kỳ 2025-2030 ngày 29/7. Ảnh: VGP/Thu Sa
Báo cáo nhiệm kỳ 2020-2025 cho thấy Viện đã triển khai nhiều đề tài, dự án trọng điểm quốc gia, tạo ra các kết quả nghiên cứu giá trị, được công bố trên các tạp chí quốc tế. Trong 5 năm, Viện công bố hơn 12.000 công trình khoa học, trong đó 8.400 công bố quốc tế, tăng 73% so với nhiệm kỳ trước. Đơn vị được cấp 292 bằng sở hữu trí tuệ, trong đó 9 bằng sáng chế quốc tế, tăng 52%. Viện cũng hoàn thành các hạng mục chính của dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam và thu thập, phân loại hơn 60.000 mẫu động, thực vật trong đề án Bộ sưu tập mẫu vật thiên nhiên quốc gia.
Bên cạnh đó, Viện cũng hoàn thành đồng bộ các thành phần chính dự án trọng điểm Trung tâm Vũ trụ Việt Nam được chính phủ giao. Dự án “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu vật quốc gia về thiên nhiên Việt Nam” đã thu thập, phân loại hơn 60.000 mẫu động vật, thực vật.
“Những thành tựu trên là minh chứng rõ nét cho tinh thần lao động sáng tạo, sự cống hiến của các thế hệ nhà khoa học, cán bộ, đảng viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đánh giá.
Để tiếp tục phát huy vai trò của Viện, trong bối cảnh Nghị quyết 57 xác định khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển của Việt Nam, Phó thủ tướng đề nghị trong nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm. Bên cạnh các nhiệm vụ về công tác Đảng, ông đề nghị Viện tiếp tục tập trung nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ; đầu tư phát triển nghiên cứu cơ bản, mở rộng các hướng nghiên cứu mới, đón đầu xu thế công nghệ của thế giới; phát triển công nghệ lõi và công nghệ nguồn để tạo nền tảng tri thức.
“Đặc biệt, cần quan tâm đến việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng 11 ngành công nghệ chiến lược mà Thủ tướng Chính phủ mới ban hành”, Phó thủ tướng nói, lưu ý Viện cần đầu tư đồng bộ, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, hướng tới các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, biến phòng thí nghiệm thành “vườn ươm” công nghệ.
Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại sự kiện. Ảnh: VGP/Thu Sa
Phó thủ tướng cũng gợi mở Viện đổi mới cách tiếp cận đáp ứng được xu thế mới và yêu cầu đặt ra của Đảng, Nhà nước; hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, đầu tư cơ sở vật chất tốt, từ đó, vươn lên làm những việc mới, việc khó, việc lớn, việc quan trọng.
Bên cạnh đó, Viện được yêu cầu chú trọng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành, các nhà khoa học trẻ tài năng; tạo cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, đặc biệt là các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài; xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, năng động, khuyến khích sáng tạo và đổi mới.
Với vấn đề hợp tác quốc tế và hội nhập khoa học công nghệ, Phó thủ tướng đề nghị Viện chủ động tham gia vào các mạng lưới nghiên cứu quốc tế, các chương trình khoa học lớn của thế giới. Cùng với đó, Viện cần tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học hàng đầu thế giới để trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực; phát huy vai trò cầu nối trong việc đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào Việt Nam và giới thiệu các thành tựu khoa học của Việt Nam ra thế giới.
Trung Quốc đang bước vào giai đoạn sản xuất mới với “nhà máy trong bóng tối”, khi mọi công việc đều tự động hóa, không cần ánh đèn.
Năm 2023, Xiaomi công bố tổ hợp sản xuất 81.000 mét vuông, tương đương 11 sân bóng đá, hoạt động 24/7, không một bóng người, không đèn, không nghỉ và không thay ca. Nhà máy trị giá 330 triệu USD này là một phần của Nền tảng sản xuất siêu thông minh HyperIMP – hệ sinh thái hỗ trợ bởi AI, nơi máy móc không chỉ làm theo lệnh mà còn suy nghĩ, thích nghi và tối ưu hóa.
Minh họa về Dark Factory. Ảnh: YourStory
Kể từ đó, Xiaomi liên tục cải tiến nhà máy. Giữa năm ngoái, công ty Trung Quốc cho biết hệ thống sẽ tự động sản xuất 10 triệu smartphone cao cấp mỗi năm. “Có 11 dây chuyền sản xuất. 100% quy trình chủ chốt đều tự động. Chúng tôi phát triển toàn bộ phần mềm sản xuất để đạt được điều này”, CEO Lei Jun nói trong video đăng trên mạng xã hội.
Theo Interesting Engineering, Xiaomi còn một siêu nhà máy khác rộng 720.000 m2 dùng cho sản xuất ôtô điện. Tọa lạc tại Khu phát triển kinh tế – công nghệ Bắc Kinh, nhà máy có tỷ lệ tự động hóa 91%, trong đó quy trình chính như đúc khuôn quy mô lớn đạt tỷ lệ 100%. Hơn 700 robot làm việc liên tục, thực hiện đa nhiệm vụ từ hàn, sơn đến lắp ráp và kiểm tra chất lượng.
“Nhà máy trong bóng tối” làm được gì?
Hai nhà máy Xiaomi chỉ là một phần nhỏ trong làn sóng nhà máy trong bóng tối (Dark Factory), hay nhà máy tắt đèn (Lights-out Factory). Theo định nghĩa của Siemens, đây là những tổ hợp trang bị hệ thống tự động, thông qua phần mềm quản lý hoạt động sản xuất (MOM) để thực hiện nhiệm vụ mà không cần sự can thiệp của con người. MOM có thể điều phối, cung cấp số liệu quy trình sản xuất tự động để con người giám sát, nhận cảnh báo hoặc can thiệp bổ sung nếu xảy ra sự cố.
Những nhà máy dạng này phụ thuộc nhiều vào robot và hệ thống trí tuệ nhân tạo. Chẳng hạn, HyperIMP của Xiaomi có thể thực hiện việc giám sát thời gian thực bằng cách liên tục truyền dữ liệu vận hành đến máy chủ; phân tích và dự đoán, trong đó AI xác định điểm bất thường trước khi chúng trở thành vấn đề, hay tự động sửa các lỗi nhỏ, sự cố cảm biến. Nói cách khác, không chỉ điều khiển robot lắp ráp, HyperIMP còn “dạy” robot cách “làm việc” như một kỹ sư.
Với quy trình hoàn toàn tự động, Dark Factory loại bỏ nhu cầu về cơ sở hạ tầng phục vụ con người, như chiếu sáng, sưởi ấm, điều hòa không khí, phòng giải lao, căng-tin và các tiện nghi khác cho công nhân. Trong khi nhà máy truyền thống cần cơ sở hạ tầng rộng lớn để hỗ trợ sự thoải mái và an toàn cho công nhân, Dark Factory tập trung tối ưu hóa hoàn toàn về hiệu quả và độ chính xác của sản xuất.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), việc không còn yếu tố “lấy con người làm trung tâm” của Dark Factory giúp giảm 15-20% mức tiêu thụ năng lượng, vì hệ thống chiếu sáng, sưởi ấm và thông gió không cần thiết. Trong khi đó, kiểm soát chất lượng được cải thiện trong môi trường tối, với các hệ thống bằng AI đạt độ chính xác nhất quán vượt khả năng của con người.
Một thập kỷ chuẩn bị
Trước đây, Dark Factory được đánh giá chỉ áp dụng ở quy mô nhỏ, còn nhà máy lớn sẽ theo mô hình “thưa đèn”, tức tắt/bật đèn tại khu vực chỉ định. Tuy nhiên, với sự phát triển của tự động hóa và AI, các tổ hợp giờ đây dễ triển khai mô hình mới hơn bao giờ hết, và Trung Quốc đang tiên phong.
Việc xây dựng nền tảng robot từ cách đây một thập kỷ giúp Trung Quốc dẫn đầu về Dark Factory. Năm 2015, sáng kiến “Made in China 2025” được đưa ra, nhấn mạnh vào robot, AI và nhà máy thông minh.
Các số liệu cho thấy sáng kiến đem lại kết quả khả quan. Liên đoàn Robot Quốc tế (IFR) cho biết Trung Quốc đã lắp đặt 290.367 robot công nghiệp năm 2022, chiếm 52% tổng robot trên toàn thế giới, vượt cả Mỹ và Nhật Bản cộng lại. Mật độ robot của Trung Quốc đạt 392 (chỉ số robot trên 10.000 công nhân sản xuất), vượt mức trung bình toàn cầu là 141. Năm 2024, chỉ số này của Trung Quốc đạt 470, đứng thứ ba sau Hàn Quốc và Singapore.
Trong khi đó, các hệ thống cảm biến tiên tiến cung cấp “giác quan” cho Dark Factory, kết hợp công nghệ thị giác máy tính, phát hiện hồng ngoại, Lidar và các công nghệ khác cho phép máy móc nhận biết môi trường xung quanh và thực hiện nhiệm vụ chính xác trong bóng tối.
Không chỉ phần cứng, Trung Quốc cũng đẩy mạnh phần mềm AI chuyên biệt cho tự động hóa – bộ não của Dark Factory. Theo tổ chức Foreign Affairs Forum (FAF), nhiều doanh nghiệp Trung Quốc những năm qua liên tục cải tiến trí tuệ nhân tạo phục vụ nhà máy. Các thuật toán học máy liên tục phân tích dữ liệu sản xuất để xác định các điểm kém hiệu quả và tối ưu hóa hoạt động. Internet vạn vật (IoT) tạo ra hệ thống kết nối, nơi máy móc giao tiếp theo thời gian thực, phối hợp hoạt động và chia sẻ thông tin trên toàn bộ dây chuyền sản xuất.
Nhiều công ty áp dụng “nhà máy trong bóng tối” đang thành công ở mức độ nhất định. Theo China Daily, Changying Precision Technology Company (CPTC), công ty công nghệ tiên phong về tự động, thay thế 90% lực lượng lao động bằng hệ thống tự động. MEGVII Technology, startup phát triển mô hình “xưởng tối” thông minh ở Chiết Giang để tăng hiệu suất và làm việc 24/24, hiện áp dụng cho một công ty về sản xuất động cơ. Nhà sản xuất thiết bị gia dụng Gree Electric Appliances hợp tác với China Unicom và Huawei chuyển đổi nhà máy Gaolan ở Chu Hải thành nơi được mô tả là “nhà máy 5.5G tắt đèn lớn nhất thế giới”, cho mức tăng hiệu suất sản xuất lên 86%.
Một số trường hợp khác có tập đoàn Baogang sử dụng robot để tách xỉ khỏi thép nóng chảy, tiết kiệm gần 100.000 USD mỗi năm. Viện Động cơ Hàng không Vũ trụ Tây An áp dụng một số “công xưởng tối” tự động để đẩy nhanh sản xuất linh kiện đánh lửa cho tên lửa trong 24 tiếng.
Thách thức và hệ lụy xã hội
Mô hình Dark Factory được đánh giá tích cực, khi có thể giảm chi phí sản xuất cũng như nhân công, qua đó tăng chất lượng, ngăn ngừa lỗi và giảm thiểu lãng phí trong quá trình sản xuất. Nó cũng giúp đẩy nhanh mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2060 của Trung Quốc.
Tuy nhiên, việc thay thế con người bằng máy móc có thể khiến nước này dư thừa một lượng lớn lao động. Theo FAF, ngành sản xuất tại đây hiện sử dụng hơn 100 triệu lao động, và việc tự động hóa có thể đẩy nhiều người vào cảnh mất việc.
Nỗi lo của người lao động về tự động hóa thể hiện qua cuộc đình công năm 2023 tại Quảng Đông liên quan đến robot “cướp” việc, theo China Labour Bulletin. Bối cảnh kinh tế chung của Trung Quốc cho thấy những dấu hiệu căng thẳng khi ngành sản xuất phát triển. Nhiều lao động nhập cư rời bỏ nhà máy, trở về quê do cơ hội việc làm giảm sút.
Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi tạo ra thách thức phức tạp, khi Trung Quốc đang cố gắng cân bằng giữa tiến bộ công nghệ và sự ổn định lực lượng lao động. Việc đào tạo lại lao động đòi hỏi đầu tư đáng kể vào chương trình giáo dục, đặc biệt về AI, bảo trì robot, khoa học dữ liệu để phù hợp bối cảnh công nghiệp mới.
Ngoài ra, thách thức kỹ thuật cũng tồn tại, như lỗ hổng an ninh mạng, lo ngại về độ tin cậy của hệ thống và nhu cầu về khả năng ra quyết định AI tinh vi hơn.
“Nếu không có chiến lược chuyển đổi hiệu quả, tự động hóa có nguy cơ làm trầm trọng thêm bất bình đẳng kinh tế và căng thẳng xã hội, nhất là khi công việc sản xuất biến mất nhanh hơn tốc độ xuất hiện của cơ hội mới”, FAF bình luận. “Tương lai có thể có phương pháp tiếp cận kết hợp tối ưu hơn. Các lĩnh vực đòi hỏi sự tùy chỉnh và tay nghề thủ công có thể vẫn duy trì sự tham gia đáng kể của con người, trong khi sản xuất hàng loạt sẽ do hệ thống hoàn toàn tự động đảm nhiệm”.