Tapo C720 – camera AI tích hợp đèn pha

Camera an ninh ngoài trời của Tapo có độ phân giải 2K, tích hợp hai đèn pha 2.800 lumen có thể điều chỉnh độ sáng và tự động kích hoạt khi phát hiện chuyển động

C720 là camera ngoài trời cao cấp nhất của Tapo, thương hiệu con của TPLink. Model có giá 2,6 triệu đồng, được thiết kế gắn trần nhà hoặc tường với khả năng chống nước IP65. Không có thiết kế xoay 360 độ nhưng do tích hợp hai đèn pha, sản phẩm có kích thước lớn hơn so với các mẫu camera an ninh hiện có trên thị trường.

Hai đèn pha có độ sáng tối đa 2.800 lumen với khả năng chiếu xa 10 mét, giúp người dùng luôn có hình ảnh màu khi cần, thay vì chỉ có ảnh hồng ngoại. Phía dưới camera có một cảm biến chuyển động với góc rộng 270 độ và sẽ tự động kích hoạt đèn pha khi phát hiện chuyển động.

Camera của Tapo chỉ hỗ trợ kết nối wifi, không sử dụng dây LAN nên lắp đặt thuận tiện hơn. Phần camera sử dụng cảm biến 4 megapixel với khả năng ghi hình 2K, độ phân giải cao giúp hình ảnh sắc nét và hữu dụng hơn khi cần zoom.

Sản phẩm hỗ trợ hai cách lưu trữ bằng thẻ nhớ và cloud, đảm bảo an toàn cho dữ liệu khi một trong hai gặp sự cố. Tapo cho dùng thử miễn phí tính năng lưu trên cloud một tháng, sau đó phải trả phí.

Trên model tích hợp loa và micro, có thể gọi điện hai chiều hay phát ra âm thanh cảnh báo. Ngoài âm thanh mặc định, người dùng có thể sử dụng âm thanh mà mình thích để đặt làm cảnh báo.

C720 chỉ có góc nhìn 150 độ, nhưng camera và hai đèn pha có thể điều chỉnh góc quay và chiếu sáng linh hoạt để bao quát không gian lớn như gara, sân nhà. Người dùng có thể lắp thêm camera phụ để đảm bảo góc quan sát tối đa.

Sản phẩm có thể tùy chỉnh và điều khiển thông qua ứng dụng Tapo. Người dùng cũng có thể thiết lập khu vực cần cảnh báo thay vì toàn bộ khung hình. Công nghệ AI trên Tapo C720 có thể phát hiện chính xác vật thể là người, thú cưng, xe để loại bỏ những cảnh báo không cần thiết.

Huy Đức

Máy bay tối mật Mỹ sẽ thử nghiệm công nghệ định vị lượng tử

Máy bay X-37B của Lực lượng Không gian Mỹ sẽ thực hiện nhiệm vụ thứ tám với mục tiêu chứng minh khả năng định vị, dẫn đường và đo thời gian chính xác bằng cảm biến lượng tử.

Máy bay X-37B có kích thước bằng 1/4 tàu con thoi của NASA. Ảnh: Space

Máy bay X-37B có kích thước bằng 1/4 tàu con thoi của NASA. Ảnh: Space

Theo Wired, Lực lượng Không gian Mỹ thông báo kế hoạch phóng máy bay vũ trụ có hình dáng giống tàu con thoi X-37B trong nhiệm vụ thứ tám của chương trình. Phóng trên tên lửa Falcon 9, dự kiến X-37B sẽ cất cánh sớm nhất vào ngày 21/8 từ Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở Florida. Trước đó, trong chuyến bay gần nhất kết thúc hồi tháng 3, phương tiện đã được phóng lần đầu trên tên lửa Falcon Heavy, giúp bay vượt khỏi quỹ đạo thấp của Trái Đất và đạt quỹ đạo hình elip cao.

Trong 15 năm qua, Lực lượng Không gian Mỹ chủ yếu giữ im lặng về mục đích hoạt động của máy bay vũ trụ này cũng như giữ bí mật về khối hàng và cung cấp thông tin hạn chế về mỗi chuyến bay. Tuy nhiên, đối với chuyến bay sắp tới mang tên OTV-8, X-37B sẽ bay với module dịch vụ để mở rộng khả năng thí nghiệm, cho phép chở hàng từ Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Không quân và Đơn vị thử nghiệm sáng kiến quốc phòng.

Mục tiêu của nhiệm vụ bao gồm thử nghiệm công nghệ liên lạc laser giữa các vệ tinh băng thông cao, đánh dấu bước tiến quan trọng trong khả năng của Lực lượng Không gian Mỹ nhằm tận dụng những mạng không gian thương mại, theo Tướng Chance Saltzman, Tư lệnh Lực lượng Không gian Mỹ. X-37B sẽ thúc đẩy phát triển công nghệ định vị mới dựa trên nhiễu sóng điện từ với cảm biến quán tính lượng tử có hiệu suất cao nhất từng được thử nghiệm trong không gian.

Boeing từng thử nghiệm một đơn vị đo lường quán tính lượng tử trên máy bay thông thường, sử dụng giao thoa kế nguyên tử để phát hiện chuyển động quay và tăng tốc. Hiện nay, phiên bản cao cấp của công nghệ này sẽ được đưa vào không gian để chứng minh tính khả thi. Thử nghiệm trên máy bay X-37B hướng tới thể hiện khả năng định vị, dẫn đường và đo thời gian chính xác trong môi trường không có dịch vụ GPS. Cảm biến quán tính lượng tử cũng có thể được sử dụng gần Mặt Trăng hoặc khám phá địa điểm xa hơn trong hệ Mặt Trời.

Hai chiếc X-37B đang hoạt động của Lực lượng Không gian Mỹ đều do Boeing chế tạo, dài 9 m, bằng khoảng 1/4 chiều dài tàu con thoi của NASA. Máy bay X-37B thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 4/2010. Kể từ đó, hai máy bay vũ trụ không người lái đã thực hiện một loạt chuyến bay dài hơn. Chiếc máy bay đầu tiên thực hiện chuyến bay dài nhất và gần đây nhất từ năm 2020 đến năm 2022 trong thời gian 908 ngày. Chiếc thứ hai bay gần đây hơn, hạ cánh tại Căn cứ Lực lượng Không gian Vandenberg vào ngày 7/3 sau 434 ngày trên quỹ đạo.

An Khang (Theo Wired/Ars Technica)

Hệ thống ngăn lũ lụt bảo vệ thành phố New York

Loài chuột tích chất độc tấn công kẻ thù

Chuột mào châu Phi tích tụ độc tố từ cây mũi tên độc trong những sợi lông, giúp chúng tự vệ khi động vật săn mồi tấn công.

Chuột mào châu Phi. Ảnh: Discover Wildlife

Chuột mào châu Phi. Ảnh: Discover Wildlife

Theo Wildlife Discover, chuột mào châu Phi (Lophiomys imhausi) là một loài vật hiếm gặp và cực kỳ nguy hiểm. Đây là loài chuột duy nhất có độc được biết đến trên thế giới và là động vật có vú duy nhất tích trữ độc tố thực vật để sử dụng như cơ chế phòng vệ.

Một đặc điểm độc đáo khác của chuột mào là khả năng giết chóc của nó. Nó là loài chuột duy nhất sử dụng độc tố từ loài khác để phòng vệ thông qua một số thích nghi tiến hóa.

Đầu tiên, chuột mào ăn vỏ cây mũi tên độc châu Phi (Acokanthera schimperi). Vỏ, rễ, thân, lá và hạt của cây này chứa acovenoside A và ouabaine, hóa chất kích thích tim (cardenolide). Ở liều nhỏ, những hóa chất này có thể sử dụng cho mục đích y học, nhưng ở liều lớn hơn, chúng gây ra tác động nguy hiểm như nôn mửa, co giật, khó thở, thậm chí ngưng tim.

Tiếp theo, chuột mào liếm lông dọc theo các mảng da ở hai bên bờm của nó, truyền nước bọt chứa glycoside kích tim từ cây mũi tên độc châu Phi. Những sợi lông này có cấu trúc rất đặc biệt với lớp ngoài dạng tổ ong và lớp trong là sợi dài thẳng đứng. Cấu tạo như vậy khiến chúng rất phù hợp để hấp thụ chất lỏng, phân tán bên trong và lưu trữ.

Nếu một kẻ săn mồi phớt lờ tín hiệu cảnh báo từ màu lông và cố gắng tấn công, phần lông lộ ra sẽ giải phóng hợp chất độc hại vào miệng chúng và nhanh chóng ngấm vào máu. Đây là biện pháp tự vệ hiệu quả đối với những kẻ thù tự nhiên của chuột mào như lửng mật, linh miêu tai đen, mèo serval, linh cẩu và báo hoa mai.

Chuột mào châu Phi trưởng thành dài 360-530 mm tính từ đầu đến đuôi. Chiếc đầu nhỏ của chuột mào phủ lớp lông ngắn màu đen, trong khi cơ thể và đuôi có lớp lông tơ dày màu xám trắng và lông bảo vệ dài hơn có màu trắng hoặc đen ở chóp, khiến nó trông giống con chồn hôi nhỏ. Dải lông dài màu đen và trắng kéo dài từ đầu đến gốc đuôi chính là nguồn gốc tên gọi của chuột mào châu Phi. Khi bị đe dọa, nó dựng lên phần bờm, hiển thị màu sắc cảnh báo và để lộ những sợi lông đặc biệt chứa đủ độc tố để hạ gục bất kỳ kẻ thù nào.

Chuột mào châu Phi sống trong rừng, đồng cỏ cao và vùng cây bụi, ưa thích địa hình đá và làm tổ trong thân cây rỗng, hang hốc ở Somalia, Ethiopia, Sudan, Tanzania, Kenya, Djibouti và Eritrea. Nó chủ yếu sống đơn độc, đôi khi sống trong theo gia đình nhỏ gồm con đực, con cái và con non. Chuột mào cái đẻ 1-3 con/lứa.

Chế độ ăn ưa thích của chuột mào châu Phi chủ yếu là thực vật như lá và trái cây, dù nó cũng ăn thịt, côn trùng và rau củ. Đặc biệt, nó có cấu trúc dạ dày tương tự động vật nhai lại như bò. Dạ dày 4 ngăn chứa nhiều vi khuẩn tiêu hóa cho phép nó xử lý và phân hủy thức ăn.

An Khang (Theo Discover Wildlife, IFL Science)

Chuột mào châu Phi: Loài chuột duy nhất sử dụng độc tố thực vật

Chuyên gia Thung lũng Silicon: Sự thiếu thốn sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Ông Navi Radjou, cố vấn về đổi mới sáng tạo tại Thung lũng Silicon, nhận định sự thiếu thốn sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gợi ý Việt Nam đi theo mô hình R&D của Ấn Độ để phát triển.

Chia sẻ được ông Radjou đưa ra tại Diễn đàn Nghiên cứu và Phát triển Việt Nam – R&D Forum 2025 do AVSE Global tổ chức ngày 30/7 tại Ninh Bình. Ông hiện là cố vấn hàng đầu trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Năm 2021, ông được tổ chức Thinkers50 (Anh) ghi nhận là một trong 50 nhà tư tưởng quản trị có ảnh hưởng nhất thế giới. Ông đồng hành và tư vấn cho hàng trăm lãnh đạo doanh nghiệp toàn cầu về chiến lược phát triển bền vững, tác giả cuốn sách về đổi mới sáng tạo Jugaad Innovation với hơn 200.000 bản được bán ra.

Navi Radjou, chuyên gia về đổi mới sáng tạo, chia sẻ tại sự kiện R&D Forum 2025 tại Ninh Bình, ngày 30/7/2025. Ảnh: Lưu Quý

Navi Radjou, chuyên gia về đổi mới sáng tạo, chia sẻ tại sự kiện R&D Forum 2025 tại Ninh Bình, ngày 30/7/2025. Ảnh: Lưu Quý

“Tôi học được từ rất sớm rằng trong một thế giới khan hiếm, bạn phải học cách làm tốt hơn với ít hơn”, ông nói. “Tuy nhiên, cũng chính sự thiếu thốn lại mở ra cánh cửa sáng tạo. Khi đặt ra giới hạn về tài nguyên, bạn sẽ không còn giới hạn về sáng tạo”.

Từ trải nghiệm lớn lên trong thiếu thốn tại Ấn Độ đến quan sát mô hình phát triển ở phương Tây trong quá trình làm việc tại Thung lũng Silicon, Radjou cho rằng giới hạn nguồn lực có thể kích thích đổi mới sáng tạo.

Ông dẫn chứng ngành dược phẩm Mỹ, nơi chi tiêu R&D tăng gấp 10 lần trong 30 năm, nhưng lợi nhuận đầu tư lại giảm. “Điều đó có nghĩa họ đang đầu tư ngày càng nhiều vào việc phát triển thuốc, nhưng không có gì thực sự tạo ra tác động xã hội lớn”, ông nhấn mạnh, đồng thời lập luận rằng việc đầu tư lớn vào R&D không phải lúc nào cũng tương quan với hiệu suất tài chính hay kinh tế.

Chuyên gia cũng so sánh ngân sách hàng năm của Cơ quan Vũ trụ Ấn Độ bằng số tiền NASA chi trong ba tuần, nhưng họ vẫn đạt được một số thành tựu tương đương. Chẳng hạn, Ấn Độ đưa tàu vũ trụ lên quỹ đạo Sao Hỏa (Mangalyaan) vào năm 2015 với chi phí 74 triệu USD, chỉ bằng một phần mười so với tàu Maven của NASA (670 triệu USD).

Vấn đề này từng được Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhắc đến trong cuộc làm việc với Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cuối tháng 5. Khi đó, ông đánh giá nhiều startup có giấc mơ vươn tầm thế giới nhưng gặp khó khăn về vốn. Từ những tấm gương thành công của doanh nghiệp Việt khi vươn ra thế giới, ông khuyên các dự án không nên ngại khó, bởi “một trong những tài sản lớn họ có là sự đói khát”.

Quảng cáo

“Khó khăn quá có thể giết chết rất nhiều ý tưởng, nhưng dễ quá cũng có thể thành đốt tiền. Đừng ngại những cái ban đầu khởi sự khó khăn”, ông nói.

Mô hình nghiên cứu và phát triển

Từ những trải nghiệm trên, ông Radjou cho rằng mô hình nghiên cứu và phát triển của thế kỷ 21 xoay quanh ba yếu tố: tiết kiệm, linh hoạt và bền vững. “Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một mô hình như vậy”, ông nói.

Mô hình R&D trong thế kỷ 21 được Radjou đưa ra. Ảnh chụp màn hình

Mô hình R&D trong thế kỷ 21 được ông Navi Radjou đưa ra. Ảnh chụp màn hình

Về tiết kiệm (frugal), ông gợi ý thay vì đầu tư vào công nghệ mới, lựa chọn khôn ngoan hơn là tận dụng và tái mục đích các công nghệ hiện có để tạo ra giá trị lớn hơn, gọi đây là “nền kinh tế tri thức tuần hoàn”.

Ông lấy ví dụ về HeartFight Technologies, một startup ở Đại học Cambridge (Anh), đã phát triển một thiết bị phát hiện sớm suy tim thông qua mắt cá chân bị sưng. Điều đặc biệt của dự án là tái sử dụng thuật toán AI nhận dạng khuôn mặt để phân tích hình ảnh mắt cá chân, từ đó giúp giảm chi phí chăm sóc sức khỏe.

Về linh hoạt (agile) trong R&D, ông đề xuất đưa giới học thuật và công nghiệp xích lại gần nhau hơn, thậm chí “cùng đặt trung tâm R&D của doanh nghiệp bên trong khuôn viên trường đại học”. Một ví dụ điển hình là Công ty vật liệu xây dựng Saint-Gobain đặt trung tâm R&D trong Viện Công nghệ Ấn Độ năm 2012. Việc này giúp các kỹ sư Saint-Gobain tương tác thường xuyên với nhà nghiên cứu đại học, đẩy nhanh quá trình từ khoa học cơ bản đến kinh doanh một cách nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.

Cuối cùng, về tính bền vững (sustainable), Radjou đưa ra ý tưởng đặt phòng thí nghiệm R&D bên trong tự nhiên. Ông đề cập mô hình công viên khoa học và công nghệ Guam Brazil, nơi các nhà nghiên cứu và 40 công ty làm việc cùng nhau để nghiên cứu sản phẩm dựa trên rừng, biến chúng thành sản phẩm giá trị cao. Ông gọi đây là “kinh tế sinh học” (bioeconomy), một lĩnh vực được dự báo đạt 10 nghìn tỷ USD trong 10 năm tới. Radjou tin rằng Việt Nam, với sự đa dạng sinh học phong phú, có thể tiên phong mô hình này.

“Câu hỏi đặt ra là có thể làm điều đó rẻ hơn, nhanh hơn, tốt hơn không? Có, và tôi nghĩ các quốc gia như Ấn Độ và Việt Nam có thể giúp ích”, ông nói. “Việt Nam cũng có thể trở thành trung tâm R&D toàn cầu, nơi cho thế giới thấy cách đơn giản hóa mọi thứ mà vẫn tạo ra sự đổi mới”.

Tương tự Việt Nam đặt mục tiêu thành nước phát triển vào năm 2045, Ấn Độ đặt mục tiêu này vào năm 2047. Theo Radjou, hai nước có cơ hội không chỉ “nhảy cóc” trên bảng xếp hạng thế giới, mà còn “mở đường” cho hướng phát triển hoàn toàn mới, đóng góp không chỉ vào tăng trưởng kinh tế mà còn cho sự hài hòa xã hội và sinh thái lớn hơn.

“Đây có thể là cơ hội lịch sử để Việt Nam không chỉ nhảy cóc, mà còn thay thế một mô hình R&D mới sẽ tiết kiệm, linh hoạt và bền vững”, Radjou nhấn mạnh.

Tại diễn đàn, ông Nguyễn Đức Khương, Chủ tịch Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global), đánh giá đổi mới sáng tạo giúp đưa các nghiên cứu thành sản phẩm và mang đến giá trị cống hiến cho xã hội, cho doanh nghiệp, xa hơn nữa là đóng góp thế giới. Theo ông, Việt Nam có những thách thức, như chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, nhưng “nếu trở thành cường quốc về những công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam có thể đóng góp sâu sắc cho sự phát triển của thế giới”.

Tại Việt Nam, đổi mới sáng tạo cùng khoa học công nghệ và chuyển đổi số được xác định là động lực then chốt nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo, thể hiện qua việc Luật Khoa học công nghệ được phát triển thành Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

“Nếu ngành khoa học và công nghệ được kỳ vọng đóng góp 4% vào tăng trưởng GDP, phần đóng góp từ đổi mới sáng tạo chiếm 3%, trong khi khoa học công nghệ chiếm 1%”, Bộ trưởng nói.

Lưu Quý

Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ đặt mục tiêu làm chủ 30 công nghệ

Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ 30 công nghệ trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, vũ trụ, thông tin trong giai đoạn 2025-2030.

Mục tiêu được đưa ra tại Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 9 nhiệm kỳ 2025-2030 ngày 29/7. Đại hội có sự tham dự của Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng.

Trong nhiệm vụ mới, Đảng bộ Viện xác định 6 chỉ tiêu cụ thể về thực hiện nhiệm vụ, gồm: Có bước đột phá về chất lượng nghiên cứu cơ bản, phấn đấu tăng hơn 50% số lượng công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín, có chỉ số ảnh hưởng cao so với nhiệm kỳ 2020-2025.

Viện đặt mục tiêu làm chủ ít nhất 30 công nghệ tiên tiến, công nghệ lõi, công nghệ chiến lược trong các lĩnh vực chế tạo vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ biển, công nghệ vũ trụ… Ngoài ra, số lượng bằng sở hữu trí tuệ được kỳ vọng tăng 50% so với nhiệm kỳ 2020-2025; duy trì các nhóm nghiên cứu mạnh hiện có và phát triển thêm ít nhất 20 nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản; chất lượng đào tạo đại học và sau đại học đạt chuẩn quốc tế; đến năm 2030, phấn đấu 9 trong số 12 tạp chí của Viện Hàn lâm đạt chuẩn Web of Science/Scopus.

Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 9, nhiệm kỳ 2025-2030 ngày 29/7. Ảnh: VGP/Thu Sa

Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 9, nhiệm kỳ 2025-2030 ngày 29/7. Ảnh: VGP/Thu Sa

Báo cáo nhiệm kỳ 2020-2025 cho thấy Viện đã triển khai nhiều đề tài, dự án trọng điểm quốc gia, tạo ra các kết quả nghiên cứu giá trị, được công bố trên các tạp chí quốc tế. Trong 5 năm, Viện công bố hơn 12.000 công trình khoa học, trong đó 8.400 công bố quốc tế, tăng 73% so với nhiệm kỳ trước. Đơn vị được cấp 292 bằng sở hữu trí tuệ, trong đó 9 bằng sáng chế quốc tế, tăng 52%. Viện cũng hoàn thành các hạng mục chính của dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam và thu thập, phân loại hơn 60.000 mẫu động, thực vật trong đề án Bộ sưu tập mẫu vật thiên nhiên quốc gia.

Bên cạnh đó, Viện cũng hoàn thành đồng bộ các thành phần chính dự án trọng điểm Trung tâm Vũ trụ Việt Nam được chính phủ giao. Dự án “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu vật quốc gia về thiên nhiên Việt Nam” đã thu thập, phân loại hơn 60.000 mẫu động vật, thực vật.

“Những thành tựu trên là minh chứng rõ nét cho tinh thần lao động sáng tạo, sự cống hiến của các thế hệ nhà khoa học, cán bộ, đảng viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đánh giá.

Để tiếp tục phát huy vai trò của Viện, trong bối cảnh Nghị quyết 57 xác định khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển của Việt Nam, Phó thủ tướng đề nghị trong nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm. Bên cạnh các nhiệm vụ về công tác Đảng, ông đề nghị Viện tiếp tục tập trung nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ; đầu tư phát triển nghiên cứu cơ bản, mở rộng các hướng nghiên cứu mới, đón đầu xu thế công nghệ của thế giới; phát triển công nghệ lõi và công nghệ nguồn để tạo nền tảng tri thức.

“Đặc biệt, cần quan tâm đến việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng 11 ngành công nghệ chiến lược mà Thủ tướng Chính phủ mới ban hành”, Phó thủ tướng nói, lưu ý Viện cần đầu tư đồng bộ, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, hướng tới các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, biến phòng thí nghiệm thành “vườn ươm” công nghệ.

Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại sự kiện. Ảnh: VGP/Thu Sa

Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại sự kiện. Ảnh: VGP/Thu Sa

Phó thủ tướng cũng gợi mở Viện đổi mới cách tiếp cận đáp ứng được xu thế mới và yêu cầu đặt ra của Đảng, Nhà nước; hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, đầu tư cơ sở vật chất tốt, từ đó, vươn lên làm những việc mới, việc khó, việc lớn, việc quan trọng.

Bên cạnh đó, Viện được yêu cầu chú trọng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành, các nhà khoa học trẻ tài năng; tạo cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, đặc biệt là các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài; xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, năng động, khuyến khích sáng tạo và đổi mới.

Với vấn đề hợp tác quốc tế và hội nhập khoa học công nghệ, Phó thủ tướng đề nghị Viện chủ động tham gia vào các mạng lưới nghiên cứu quốc tế, các chương trình khoa học lớn của thế giới. Cùng với đó, Viện cần tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học hàng đầu thế giới để trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực; phát huy vai trò cầu nối trong việc đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào Việt Nam và giới thiệu các thành tựu khoa học của Việt Nam ra thế giới.

Lưu Quý

Xu hướng ‘nhà máy trong bóng tối’ tại Trung Quốc

Trung Quốc đang bước vào giai đoạn sản xuất mới với “nhà máy trong bóng tối”, khi mọi công việc đều tự động hóa, không cần ánh đèn.

Năm 2023, Xiaomi công bố tổ hợp sản xuất 81.000 mét vuông, tương đương 11 sân bóng đá, hoạt động 24/7, không một bóng người, không đèn, không nghỉ và không thay ca. Nhà máy trị giá 330 triệu USD này là một phần của Nền tảng sản xuất siêu thông minh HyperIMP – hệ sinh thái hỗ trợ bởi AI, nơi máy móc không chỉ làm theo lệnh mà còn suy nghĩ, thích nghi và tối ưu hóa.

Minh họa về Dark Factory. Ảnh: YourStory

Minh họa về Dark Factory. Ảnh: YourStory

Kể từ đó, Xiaomi liên tục cải tiến nhà máy. Giữa năm ngoái, công ty Trung Quốc cho biết hệ thống sẽ tự động sản xuất 10 triệu smartphone cao cấp mỗi năm. “Có 11 dây chuyền sản xuất. 100% quy trình chủ chốt đều tự động. Chúng tôi phát triển toàn bộ phần mềm sản xuất để đạt được điều này”, CEO Lei Jun nói trong video đăng trên mạng xã hội.

Theo Interesting Engineering, Xiaomi còn một siêu nhà máy khác rộng 720.000 m2 dùng cho sản xuất ôtô điện. Tọa lạc tại Khu phát triển kinh tế – công nghệ Bắc Kinh, nhà máy có tỷ lệ tự động hóa 91%, trong đó quy trình chính như đúc khuôn quy mô lớn đạt tỷ lệ 100%. Hơn 700 robot làm việc liên tục, thực hiện đa nhiệm vụ từ hàn, sơn đến lắp ráp và kiểm tra chất lượng.

“Nhà máy trong bóng tối” làm được gì?

Hai nhà máy Xiaomi chỉ là một phần nhỏ trong làn sóng nhà máy trong bóng tối (Dark Factory), hay nhà máy tắt đèn (Lights-out Factory). Theo định nghĩa của Siemens, đây là những tổ hợp trang bị hệ thống tự động, thông qua phần mềm quản lý hoạt động sản xuất (MOM) để thực hiện nhiệm vụ mà không cần sự can thiệp của con người. MOM có thể điều phối, cung cấp số liệu quy trình sản xuất tự động để con người giám sát, nhận cảnh báo hoặc can thiệp bổ sung nếu xảy ra sự cố.

Những nhà máy dạng này phụ thuộc nhiều vào robot và hệ thống trí tuệ nhân tạo. Chẳng hạn, HyperIMP của Xiaomi có thể thực hiện việc giám sát thời gian thực bằng cách liên tục truyền dữ liệu vận hành đến máy chủ; phân tích và dự đoán, trong đó AI xác định điểm bất thường trước khi chúng trở thành vấn đề, hay tự động sửa các lỗi nhỏ, sự cố cảm biến. Nói cách khác, không chỉ điều khiển robot lắp ráp, HyperIMP còn “dạy” robot cách “làm việc” như một kỹ sư.

Với quy trình hoàn toàn tự động, Dark Factory loại bỏ nhu cầu về cơ sở hạ tầng phục vụ con người, như chiếu sáng, sưởi ấm, điều hòa không khí, phòng giải lao, căng-tin và các tiện nghi khác cho công nhân. Trong khi nhà máy truyền thống cần cơ sở hạ tầng rộng lớn để hỗ trợ sự thoải mái và an toàn cho công nhân, Dark Factory tập trung tối ưu hóa hoàn toàn về hiệu quả và độ chính xác của sản xuất.

Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), việc không còn yếu tố “lấy con người làm trung tâm” của Dark Factory giúp giảm 15-20% mức tiêu thụ năng lượng, vì hệ thống chiếu sáng, sưởi ấm và thông gió không cần thiết. Trong khi đó, kiểm soát chất lượng được cải thiện trong môi trường tối, với các hệ thống bằng AI đạt độ chính xác nhất quán vượt khả năng của con người.

Một thập kỷ chuẩn bị

Trước đây, Dark Factory được đánh giá chỉ áp dụng ở quy mô nhỏ, còn nhà máy lớn sẽ theo mô hình “thưa đèn”, tức tắt/bật đèn tại khu vực chỉ định. Tuy nhiên, với sự phát triển của tự động hóa và AI, các tổ hợp giờ đây dễ triển khai mô hình mới hơn bao giờ hết, và Trung Quốc đang tiên phong.

Việc xây dựng nền tảng robot từ cách đây một thập kỷ giúp Trung Quốc dẫn đầu về Dark Factory. Năm 2015, sáng kiến “Made in China 2025” được đưa ra, nhấn mạnh vào robot, AI và nhà máy thông minh.

Các số liệu cho thấy sáng kiến đem lại kết quả khả quan. Liên đoàn Robot Quốc tế (IFR) cho biết Trung Quốc đã lắp đặt 290.367 robot công nghiệp năm 2022, chiếm 52% tổng robot trên toàn thế giới, vượt cả Mỹ và Nhật Bản cộng lại. Mật độ robot của Trung Quốc đạt 392 (chỉ số robot trên 10.000 công nhân sản xuất), vượt mức trung bình toàn cầu là 141. Năm 2024, chỉ số này của Trung Quốc đạt 470, đứng thứ ba sau Hàn Quốc và Singapore.

Trong khi đó, các hệ thống cảm biến tiên tiến cung cấp “giác quan” cho Dark Factory, kết hợp công nghệ thị giác máy tính, phát hiện hồng ngoại, Lidar và các công nghệ khác cho phép máy móc nhận biết môi trường xung quanh và thực hiện nhiệm vụ chính xác trong bóng tối.

Không chỉ phần cứng, Trung Quốc cũng đẩy mạnh phần mềm AI chuyên biệt cho tự động hóa – bộ não của Dark Factory. Theo tổ chức Foreign Affairs Forum (FAF), nhiều doanh nghiệp Trung Quốc những năm qua liên tục cải tiến trí tuệ nhân tạo phục vụ nhà máy. Các thuật toán học máy liên tục phân tích dữ liệu sản xuất để xác định các điểm kém hiệu quả và tối ưu hóa hoạt động. Internet vạn vật (IoT) tạo ra hệ thống kết nối, nơi máy móc giao tiếp theo thời gian thực, phối hợp hoạt động và chia sẻ thông tin trên toàn bộ dây chuyền sản xuất.

Nhiều công ty áp dụng “nhà máy trong bóng tối” đang thành công ở mức độ nhất định. Theo China Daily, Changying Precision Technology Company (CPTC), công ty công nghệ tiên phong về tự động, thay thế 90% lực lượng lao động bằng hệ thống tự động. MEGVII Technology, startup phát triển mô hình “xưởng tối” thông minh ở Chiết Giang để tăng hiệu suất và làm việc 24/24, hiện áp dụng cho một công ty về sản xuất động cơ. Nhà sản xuất thiết bị gia dụng Gree Electric Appliances hợp tác với China Unicom và Huawei chuyển đổi nhà máy Gaolan ở Chu Hải thành nơi được mô tả là “nhà máy 5.5G tắt đèn lớn nhất thế giới”, cho mức tăng hiệu suất sản xuất lên 86%.

Một số trường hợp khác có tập đoàn Baogang sử dụng robot để tách xỉ khỏi thép nóng chảy, tiết kiệm gần 100.000 USD mỗi năm. Viện Động cơ Hàng không Vũ trụ Tây An áp dụng một số “công xưởng tối” tự động để đẩy nhanh sản xuất linh kiện đánh lửa cho tên lửa trong 24 tiếng.

Thách thức và hệ lụy xã hội

Mô hình Dark Factory được đánh giá tích cực, khi có thể giảm chi phí sản xuất cũng như nhân công, qua đó tăng chất lượng, ngăn ngừa lỗi và giảm thiểu lãng phí trong quá trình sản xuất. Nó cũng giúp đẩy nhanh mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2060 của Trung Quốc.

Tuy nhiên, việc thay thế con người bằng máy móc có thể khiến nước này dư thừa một lượng lớn lao động. Theo FAF, ngành sản xuất tại đây hiện sử dụng hơn 100 triệu lao động, và việc tự động hóa có thể đẩy nhiều người vào cảnh mất việc.

Nỗi lo của người lao động về tự động hóa thể hiện qua cuộc đình công năm 2023 tại Quảng Đông liên quan đến robot “cướp” việc, theo China Labour Bulletin. Bối cảnh kinh tế chung của Trung Quốc cho thấy những dấu hiệu căng thẳng khi ngành sản xuất phát triển. Nhiều lao động nhập cư rời bỏ nhà máy, trở về quê do cơ hội việc làm giảm sút.

Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi tạo ra thách thức phức tạp, khi Trung Quốc đang cố gắng cân bằng giữa tiến bộ công nghệ và sự ổn định lực lượng lao động. Việc đào tạo lại lao động đòi hỏi đầu tư đáng kể vào chương trình giáo dục, đặc biệt về AI, bảo trì robot, khoa học dữ liệu để phù hợp bối cảnh công nghiệp mới.

Ngoài ra, thách thức kỹ thuật cũng tồn tại, như lỗ hổng an ninh mạng, lo ngại về độ tin cậy của hệ thống và nhu cầu về khả năng ra quyết định AI tinh vi hơn.

“Nếu không có chiến lược chuyển đổi hiệu quả, tự động hóa có nguy cơ làm trầm trọng thêm bất bình đẳng kinh tế và căng thẳng xã hội, nhất là khi công việc sản xuất biến mất nhanh hơn tốc độ xuất hiện của cơ hội mới”, FAF bình luận. “Tương lai có thể có phương pháp tiếp cận kết hợp tối ưu hơn. Các lĩnh vực đòi hỏi sự tùy chỉnh và tay nghề thủ công có thể vẫn duy trì sự tham gia đáng kể của con người, trong khi sản xuất hàng loạt sẽ do hệ thống hoàn toàn tự động đảm nhiệm”.

Bảo Lâm tổng hợp

Sắp có tuyến cáp quang biển do người Việt làm chủ

Viettel phát triển tuyến cáp quang biển do Việt Nam làm chủ, dự kiến hoàn thành vào năm 2028 nhằm nâng cao vị thế quốc gia.

Việc sở hữu hệ thống cáp quang biển mạnh mẽ và tự chủ được Viettel đánh giá là yếu tố then chốt để bảo vệ an ninh dữ liệu quốc gia. Các tuyến cáp biển sẽ giúp giảm phụ thuộc vào hạ tầng do nước ngoài kiểm soát, tăng khả năng ứng phó với các rủi ro như gián đoạn kết nối hoặc tấn công mạng. Theo Viettel, tự chủ trong triển khai, vận hành và bảo trì cáp biển sẽ giúp kiểm soát tốt hơn dữ liệu quốc gia, đảm bảo an toàn cho các lĩnh vực nhạy cảm như quốc phòng, tài chính và thông tin công dân.

Viettel tiên phong làm chủ hạ tầng cáp quang biển, đưa Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành trung tâm dữ liệu khu vực. Theo nghị quyết của Chính phủ, Viettel cam kết triển khai và vận hành 5 tuyến cáp quang biển quốc tế mới trong giai đoạn 2025 – 2030.

Đại diện Viettel và Singtel ký hợp tác dự án tuyến cáp VTS kết nối trực tiếp từ Việt Nam đi Singapore hồi tháng 4/2024. Ảnh: Thu Hà

Đại diện Viettel và Singtel ký hợp tác dự án tuyến cáp VTS kết nối trực tiếp từ Việt Nam đi Singapore hồi tháng 4/2024. Ảnh: Thu Hà

Bên cạnh tuyến cáp ADC đã đưa vào vận hành từ đầu năm nay, dự án tuyến cáp VTS kết nối trực tiếp từ Việt Nam đi Singapore cũng được ấn định với Biên bản ghi nhớ hợp tác do Viettel Solutions ký kết với Tập đoàn Singtel hồi tháng 4/2024. “Tuyến cáp này dự kiến hoàn thành vào năm 2028, là tuyến cáp đầu tiên do Việt Nam hoàn toàn làm chủ, với dung lượng lớn nhất và độ trễ thấp nhất, kết nối Việt Nam tới Singapore – cửa ngõ dữ liệu châu Á”, đại diện Viettel cho biết.

Với tuyến cáp tự chủ này, Viettel sẽ toàn quyền trong việc lựa chọn công nghệ, tuyến đi, điểm cập bờ (hub) và cấu hình kết nối – đảm bảo hạ tầng tối ưu cho nhu cầu phát triển của Việt Nam trong dài hạn. Tuyến cáp này cũng xác lập năng lực quốc gia trong lĩnh vực hạ tầng số chiến lược, khi lần đầu một doanh nghiệp Việt đứng ra chủ trì triển khai tuyến cáp quang biển quốc tế, nâng vị thế Việt Nam trên bản đồ viễn thông toàn cầu.

Viettel Solutions cũng đang triển khai một tuyến cáp biển ALC (Asia Link Cable), kết nối đến hai Hub viễn thông chính của khu vực châu Á (Hồng Kông, Singapore) với tổng dung lượng đi quốc tế là 36 Tbps. Đại diện doanh nghiệp cho biết, Viettet đang là nhà đầu tư lớn nhất tại Đà Nẵng của tuyến này, chiến lược đầu tư cáp biển nhằm xây dựng mạng lưới kết nối đa tầng, an toàn, bền vững, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế số.

Đại diện Viettel, Singtel và đối tác tại lễ khánh thành tuyến cáp ADC đầu năm 2025. Ảnh: Trần Long

Đại diện Viettel, Singtel và đối tác tại lễ khánh thành tuyến cáp ADC đầu năm 2025. Ảnh: Trần Long

Tuy nhiên, việc triển khai các tuyến cáp biển cũng đối mặt nhiều thách thức, từ sự khác biệt pháp lý giữa các quốc gia, đến nguồn lực thi công hạn chế và chi phí cao. “Viettel đã chứng minh khả năng ứng phó qua việc phối hợp chặt chẽ các cơ quan quản lý để tháo gỡ rào cản pháp lý, đồng thời tối ưu lựa chọn đối tác, giám sát tiến độ thi công”, đại diện doanh nghiệp cho biết. “Văn hóa ‘làm việc khó’ của Viettel giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản phức tạp, đảm bảo tiến độ và chất lượng các dự án”.

Viettel cũng đầu tư mạnh vào đào tạo nhân lực, nghiên cứu công nghệ nhằm tăng năng lực tự chủ trong thiết kế, triển khai và bảo trì cáp biển. Điều này giúp giảm phụ thuộc các nhà thầu nước ngoài, tạo cơ hội để đội ngũ kỹ sư Việt Nam phát triển chuyên môn, sẵn sàng cho các dự án quy mô lớn hơn trong tương lai.

Kinh tế số của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, với dự kiến đóng góp 30% GDP vào năm 2030. Hạ tầng cáp quang biển là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo tốc độ truyền tải dữ liệu và khả năng xử lý khối lượng thông tin lớn.

Với hệ thống cáp quang biển hiện đại, Việt Nam được đánh giá có tiềm năng trở thành một “digital hub” khu vực, cạnh tranh với các trung tâm dữ liệu lớn như Singapore và Hồng Kông (Trung Quốc). Hệ thống cáp biển đa tầng, kết nối đa hướng sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển các trung tâm dữ liệu quy mô lớn. Điều này thúc đẩy các ngành công nghiệp công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (cloud), Internet vạn vật (IoT), blockchain…

Qua đó, Việt Nam hứa hẹn trở thành mắt xích quan trọng trong mạng lưới dữ liệu toàn cầu, thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn như Google, Amazon và Microsoft. Những đơn vị này đang tìm kiếm các điểm trung chuyển dữ liệu tại Đông Nam Á, có thể tạo ra hàng triệu việc làm trong các ngành công nghiệp số.

Quang Anh

Tác động của bức xạ vũ trụ tới cơ thể người

Bức xạ vũ trụ liều cao có thể phá vỡ phân tử ADN, làm tăng nguy cơ ung thư, đục thủy tinh thể và gây ra vấn đề sinh sản ở người.

Mô phỏng bức xạ vũ trụ truyền tới Trái Đất. Ảnh: Science Photo Library

Mô phỏng bức xạ vũ trụ truyền tới Trái Đất. Ảnh: Science Photo Library

Theo Dimitra Atri, chuyên gia ở Nhóm nghiên cứu Sao Hỏa tại Trung tâm Vật lý Thiên văn và Khoa học không gian thuộc Đại học New York Abu Dhabi, bức xạ vũ trụ là các hạt năng lượng cao di chuyển qua vũ trụ với tốc độ gần bằng vận tốc ánh sáng. Chúng bắt nguồn từ những sự kiện như vụ nổ siêu tân tinh và lóa Mặt Trời, di chuyển qua không gian, liên tục bắn phá Trái Đất từ mọi hướng và xâm nhập vào khí quyển.

Ở liều cao, tia vũ trụ có thể phá vỡ phân tử ADN, gây tổn thương mô sinh học. Tiếp xúc thời gian dài với bức xạ vũ trụ có thể làm tăng nguy cơ ung thư, đục thủy tinh thể và nhiều vấn đề sinh sản. Nó cũng có thể cản trở neurogenesis, quá trình tạo ra tế bào mới trong não. Tuy nhiên, mức độ cơ thể tiếp xúc với loại bức xạ này và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe con người rất khác nhau tùy theo độ cao và biện pháp bảo vệ.

Trên Trái Đất

Trái Đất có hệ thống phòng thủ tự nhiên chống lại bức xạ vũ trụ giúp bảo vệ sự sống trên hành tinh thông qua khí quyển và từ trường. Khí quyển hấp thụ phần lớn năng lượng từ bức xạ vũ trụ, chỉ để một phần nhỏ tiếp cận bề mặt Trái Đất. Từ trường tạo ra bởi các dòng điện trong lõi Trái Đất bảo vệ hành tinh khỏi phần lớn bức xạ không gian có hại.

Trung bình, người dân trên bề mặt Trái Đất tiếp xúc với khoảng 3 millisievert bức xạ mỗi năm (sievert là đơn vị đo liều bức xạ ảnh hưởng đến cơ thể người). Tuy nhiên, càng di chuyển lên cao, độ dày của khí quyển giảm đi và mức độ tiếp xúc với bức xạ càng nhiều hơn, theo Atri.

Càng lên cao, con người càng nhận được ít sự bảo vệ từ khí quyển trước hạt vũ trụ. Người dân sống ở vùng cao như Denver tiếp xúc với lượng bức xạ vũ trụ cao hơn một chút so với người dân ở vùng ngang mực nước biển như Miami. Khi máy bay lên cao, con người cũng tiếp xúc gần hơn với hạt năng lượng cao từ không gian.

Dù hành khách máy bay tiếp xúc với lượng bức xạ vũ trụ cao hơn, mức độ họ trải qua trong chuyến bay không đáng kể. Ví dụ, chuyến bay khứ hồi từ đầu này sang đầu kia nước Mỹ tương đương liều bức xạ trong một lần chụp X-quang ngực. Tuy nhiên, phi công, tiếp viên hàng không và người thường xuyên bay tiếp xúc với lượng bức xạ vũ trụ gia tăng do họ thường xuyên ở trên bầu trời.

Một nghiên cứu của Đại học Harvard kết luận, tiếp xúc với bức xạ góp phần vào các vấn đề sức khỏe của đoàn bay và nguy cơ ung thư. Nghiên cứu khác cho thấy phi hành đoàn thường tiếp xúc nhiều bức xạ hơn so với công nhân tại cơ sở hạt nhân nhưng không đủ gây ra nhiều tổn thương do họ vẫn ở trong từ trường Trái Đất và có khí quyển bao phủ.

Trong không gian

Sau khi bay khỏi khí quyển bảo vệ của Trái Đất, nhà du hành vũ trụ đối mặt mức độ tiếp xúc bức xạ tăng đáng kể. Cơ thể người trong không gian thường xuyên bị hạt năng lượng cao tấn công. Phi hành gia trên Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS), quay quanh Trái Đất ở độ cao 400 km, tiếp xúc với mức bức xạ cao hơn nhiều so với người trên bề mặt Trái Đất. Chỉ sau một tuần trên ISS, họ trải qua lượng bức xạ vũ trụ tương đương một người trung bình nhận được ở mực nước biển trên Trái Đất trong một năm.

Phi hành gia bay đến những nơi xa xôi hơn trong vũ trụ như nhiệm vụ đến Mặt Trăng, Sao Hỏa… sẽ tiếp xúc với nhiều tia vũ trụ hơn trong quá trình di chuyển và khi đến đích. Một thiết bị trên robot tự hành Curiosity trong hành trình 253 ngày đến Sao Hỏa hé lộ liều bức xạ mà phi hành gia nhận được trong chuyến bay đến và trở về vào khoảng 0,66 sievert, gấp 660 lần chụp X-quang ngực.

Do bầu khí quyển sao Hỏa mỏng hơn 100 lần so với Trái Đất, lượng bức xạ có thể xâm nhập qua càng nhiều hơn. Sử dụng phép đo của Curiosity, các nhà nghiên cứu ước tính nhiệm vụ 500 ngày trên bề mặt hành tinh đỏ sẽ đưa tổng lượng bức xạ tiếp xúc lên một sievert, gấp khoảng 10 lần liều bức xạ phi hành gia gặp phải trong nhiệm vụ 6 tháng trên ISS.

Giới nghiên cứu đề xuất một số thiết kế tàu vũ trụ với tấm chắn làm từ nước, vật liệu giàu hydro, hoặc vật liệu có thể cung cấp chuyến đi an toàn hơn trong vũ trụ bằng cách hấp thụ bức xạ. Các chuyên gia y tế cũng đang tìm hiểu những biện pháp có thể giảm bớt tác động của bức xạ lên cơ thể người.

An Khang (Theo National Geographic, Science Direct, AGU)

Dùng lò nhiệt hạch biến thủy ngân thành vàng

Các nhà nghiên cứu đến từ công ty Marathon Fusion đề xuất phương pháp biến đổi thủy ngân thành vàng thông qua phản ứng nhiệt hạch.

Buồng chân không của lò phản ứng Alcator C-mod ở Viện Công nghệ Massachusetts. Ảnh: Bob Mumgaard/Creative Commons

Buồng chân không của lò phản ứng Alcator C-mod ở Viện Công nghệ Massachusetts. Ảnh: Bob Mumgaard/Creative Commons

Theo công ty kỹ thuật Marathon Fusion ở Mỹ, hoạt động sản xuất vàng từ thủy ngân là khả thi và phản ứng nhiệt hạch đóng vai trò then chốt trong quá trình này. Trong bài báo đăng trên cơ sở dữ liệu arXiv hôm 22/7, họ tìm ra một phương pháp mới có thể mở rộng quy mô để tổng hợp vàng ổn định từ đồng vị thủy ngân dồi dào bằng cách sử dụng phản ứng trong lớp neutron đặc biệt của hệ thống phủ nhiệt hạch bao quanh buồng phản ứng.

Phương pháp của Marathon Fusion tập trung vào sử dụng neutron năng lượng cao được tạo ra trong lò phản ứng nhiệt hạch để biến đổi thủy ngân thành vàng. Quá trình bao gồm bắn phá một đồng vị của thủy ngân-198 bằng neutron bên trong lò phản ứng nhiệt hạch. Điều này sẽ tạo ra đồng vị mới là thủy ngân-197 kém ổn định hơn và sẽ phân rã thành vàng-197 trong vài ngày. Dạng tự nhiên của kim loại vàng là vàng-197.

Phần lớn hệ thống nhiệt hạch bao gồm lò tokamak dựa vào hợp nhất deuterium và tritium, đồng vị nặng hơn của hydro. Phản ứng đó tạo ra heli, neutron tốc độ cao và năng lượng khổng lồ. Trong chu kỳ bình thường, neutron được lưu trữ trong hệ thống phủ, dùng để hỗ trợ các chu kỳ nhiên liệu tương lai. Hệ thống phủ là bộ phận quan trọng bao quanh plasma, tự cung tự cấp tritium bằng cách tạo nhiên liệu tritium từ lithium. Bí quyết của Marathon Fusion là thêm một chút thủy ngân vào hệ thống phủ. Đồng vị thủy ngân-198 sẽ biến đổi thành thủy ngân-197 và cuối cùng chuyển thành vàng.

Theo ước tính của các nhà sáng lập công ty, một gigawatt điện nhiệt hạch có thể tạo ra đến 5.000 kg vàng hàng năm. Theo ZME Science, một gigawatt là sản lượng trung bình của nhà máy điện hạt nhân cỡ lớn, có thể dẫn tới lượng vàng trị giá 550 triệu USD mỗi năm trên mỗi GW năng lượng nhiệt hạch. Nếu áp dụng quá trình thành công, nó có thể tăng gần gấp đôi doanh thu của nhà máy điện nhiệt hạch mà không làm giảm công suất năng lượng hoặc sản lượng tritium.

Các nhà nghiên cứu của Marathon Fusion so sánh neutron tạo ra trong phản ứng nhiệt hạch và phân hạch. Họ kết luận rằng phản ứng nhiệt hạch có thể cung cấp lượng lớn neutron năng lượng cao hữu ích cho việc thúc đẩy những cách biến đổi mới có giá trị. Nhóm nghiên cứu cũng kêu gọi phát triển hệ thống phủ nhiệt hạch hai lớp gồm lớp phủ trong và lớp phủ ngoài. Lớp phủ trong sẽ được thiết kế để tối đa hóa việc sản xuất vàng.

An Khang (Theo Interesting Engineering/ZME Science)

Phản ứng nhiệt hạch của Marathon Fusion biến thủy ngân thành vàng