Là một quốc gia nghèo nhưng Cuba lại sở hữu công nghệ đến Mỹ cũng thèm muốn

"Một tổng thống Mỹ đến Havana tại Cuba trên chiếc Không Lực Một của ông ấy. Trong những giấc mơ và ác mộng của tôi, chúng tôi chưa bao giờ có thể tưởng tượng rằng chúng tôi sẽ chứng kiến điều gì giống như thế" – nhà văn nổi tiếng Leonardo Padura của Cuba viết trên blog của mình.
 
Đó là sự thực, nhưng ít ai biết được rằng ở Cuba có một công nghệ y tế rực rỡ đến mức người Mỹ cũng phải quan tâm.
 
Cuba đã phát triển thành công và sở hữu một loại vắc-xin chống ung thư phổi. Mang cái tên Cimavax, nó có thể biến ung thư phổi giai đoạn cuối thành một bệnh mãn tính có thể kiểm soát.
 
Những nhà khoa học Châu Âu, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ rất quan tâm đến công nghệ này của Cuba. Ngay lúc này, tổng thống Obama đang có mặt tại Havana trong chuyến thăm lịch sử tới đất nước mà Mỹ đã cấm vận suốt 55 năm. Vậy chúng ta hãy cùng đánh giá lại một lần nữa tương lai của vắc-xin Cimavax, nếu mối quan hệ giữa Cuba và Hoa Kỳ nhanh chóng được hâm nóng trong thời gian tới.
 
 
Cimavax, loại vắc-xin chống ung thư phổi được phát triển bởi Cuba.
Từ cuối năm ngoái, chính quyền Tổng thống Obama đã tỏ rõ thiện chí muốn bình thường hóa quan hệ với Cuba. Năm 2015, thống đốc bang New York, Andrew Cuomo đã tới thăm Havana. Chuyến đi kết thúc với một thỏa thuận đáng chú ý: Viện Ung thư Roswell Park, Hoa Kỳ đồng ý với Trung tâm Miễn dịch phân tử Cuba, cho phép thử nghiệm lâm sàng vắc-xin ung thư phổi do Cuba phát triển ở Mỹ. Nó cũng sẽ được xem xét cấp phép bởi Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ.
 
"Cơ hội loại vắc-xin này được đánh giá là một viễn cảnh tươi đẹp", Candace Johnson, Giám đốc điều hành của Viện Roswell Park nói. Bà rất mong chờ kết quả này, bởi nghiên cứu của Cuba cho đến nay thể hiện đây là một loại thuốc độc tính thấp và tương đối rẻ để sản xuất đại trà.
 
Theo thỏa thuận, Trung tâm Miễn dịch phân tử Cuba sẽ cung cấp cho Viện Roswell Park tất cả tài liệu về loại vắc-xin: nó được sản xuất như thế nào, độc tính, kết quả thử nghiệm tại Cuba… Sau đó, Johnson sẽ thúc đẩy đi đến một giấy phép thử nghiệm vắc-xin Cimavax ở Mỹ trong vòng 8 tháng. Được cấp phép, thử nghiệm lâm sàng sẽ được tiến hành ngay sau vài tháng.
 
Công trình nghiên cứu của Cuba có vẻ rất ấn tượng, nhưng làm thế nào đất nước bị cấm vận trong suốt 55 năm này có thể làm được điều đó?
 
 
Bị cấm vận, Cuba vẫn có một nền công nghệ sinh học phát triển.
 
Trên thực tế, xì gà, rượu rum và bóng chày đã khiến nhiều người quên mất rằng Cuba là một trong những quốc gia có nền công nghệ sinh học phát triển và sáng tạo nhất thế giới. Một điều đáng khích lệ, nơi mà mọi người chỉ nhận lượng trung bình 20 USD mỗi tháng, Cuba dành một khoản ngân sách cực kỳ nhỏ so với Hoa Kỳ trong chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình của người dân Cuba là tương đương người Mỹ.
 
"Họ đã làm được nhiều điều hơn trong khoản kinh phí eo hẹp", Johnson nói. "Vì vậy, chắc hẳn người Cuba phải rất sáng tạo trong cách họ tiếp cận mọi thứ. Hơn 40 năm qua, họ đã xây dựng được một cộng đồng khoa học trong lĩnh vực miễn dịch rất chất lượng".
 
Suốt nhiều thập kỷ đặt dưới sự trừng phạt kinh tế nhưng chính sách ưu tiên công nghệ sinh học và nghiên cứu y học, đặc biệt là lĩnh vực phòng ngừa và miễn dịch, được cả hai nhà lãnh đạo Fidel và Raul Castro duy trì thực hiện.
 
Một cú hích lớn xảy ra năm 1981, khi một dịch sốt xuất huyết trên diện rộng xảy ra ở Cuba, ảnh hưởng đến gần 350.000 người. Chính phủ của họ đã thành lập hẳn một Mặt trận sinh học, liên kết nghiên cứu của nhiều cơ quan khác nhau hướng tới những mục tiêu cụ thể.
 
Thành công đầu tiên của họ là sản xuất thành công một protein mang tên interferon, đóng vai trò quan trọng vào hệ thống miễn dịch của con người. Kể từ đó, ngành miễn dịch học của Cuba gây được một tiếng vang lớn. Các nhà khoa học của họ liên tục thực hiện được nhiều đột phá, bao gồm từ những vắc-xin nội địa cho bệnh viêm màng não, viêm gan B cho đến kháng thể sử dụng trong ghép thận và giờ là vắc-xin ung thư phổi.
 
 
Cuba nổi tiếng với những điếu xì gà, kéo theo đó là nguy cơ ung thư phổi của người dân.
 
Cũng phải nhắc lại, Cuba là một đất nước nổi tiếng bởi xì gà. Hút thuốc quá nhiều khiến ung thư phổi trở thành nguyên nhân xếp thứ 4 gây tử vong ở Cuba. Tình trạng đáng báo động này xảy ra ngay từ 25 năm trước. Khi đó, Trung tâm Miễn dịch phân tử của họ bắt đầu nghiên cứu vắc xin Cimavax.
 
Cho tới năm 2011, Bộ Y tế Cuba đồng ý cho phép sử dụng Cimavax trên người. Những bệnh nhân được điều trị miễn phí, trong khi mỗi liều Cimavax chỉ tiêu tốn của chính phủ 1 USD. Đó là kết quả sau một thử nghiệm giai đoạn 2 năm 2008. Các bệnh nhân ung thư phổi được điều trị với vắc-xin đã sống trung bình lâu hơn 4-6 tháng bệnh nhân bình thường. Khi đó, cả Nhật Bản và Châu Âu bắt đầu chú ý đến tiềm năng của công nghệ Cimavax.
 
Về bản chất, Cimavax không phải là một loại thuốc chống ung thư trước khi nó diễn ra, như mọi người thường định nghĩa về vắc-xin. Trên thực tế, vắc-xin là một chất kích thích hệ miễn dịch. Bởi vậy, Cimavax cũng không giống với các loại thuốc điều trị bình thường, chúng không tấn công trực tiếp các khối u.
 
Thay vào đó, Cimavax thúc đẩy cơ thể người bệnh sản xuất kháng thể chống lại một hooc-môn tăng trưởng biểu bì. Loại hooc-môn này thúc đẩy sự tăng trưởng tế bào, nhưng mặt khác khiến khối u lớn lên và mất kiểm soát. Kiểm soát được loại hooc-môn này, Cimavax có thể ức chế sự phát triển của ung thư phổi, hạn chế sự di căn của nó và biến ung thư chỉ còn là một bệnh mãn tính để điều trị.
 
 
Cimavax không tấn công trực tiếp khối u mà tăng cường hệ miễn dịch cơ thể.
 
Loại vắc-xin này và cách nó làm việc thu hút được sự chú ý rất lớn của các nhà nghiên cứu Mỹ và Châu Âu. Yếu tố tăng trưởng biểu bì đóng vai trò quan trọng, không chỉ với ung thư phổi mà còn ung thư vú, tiền liệt tuyến, ruột kết, tuyến tụy. Kelvin Lee, một nhà nghiên cứu đến từ Viện Roswell Park cho biết "Tất cả những bệnh ung thư này là mục tiêu tiềm năng của loại vắc-xin này". Có vẻ vì vấn đề tài chính eo hẹp, Cuba đã không thể thử nghiệm nó trên các bệnh ung thư khác, ngoài ung thư phổi đến từ những điếu xì gà mỗi ngày.
 
Nói về những tiềm năng trong tương lai, chưa bao giờ Cimavax đứng trước một cơ hội lớn như vậy nếu được thử nghiệm và phát triển tiếp tại Mỹ. Có lẽ điều đó sẽ chắc chắn diễn ra đúng dự kiến khi mối quan hệ giữa hai quốc gia đang ấm dần lên.
 
Trong quá khứ, Tổng thống Obama đã sử dụng quyền của mình để nới lỏng một số hạn chế đối với thiết bị và nghiên cứu y tế với Cuba. Ngay lúc này, ông cũng đang có mặt tại thủ đô Havana trong một chuyến thăm lịch sử, hứa hẹn một quyết định dỡ bỏ cấm vận.
 
Nếu thực sự điều đó diễn ra, chỉ trong thời gian ngắn sắp tới, các nghiên cứu khoa học của hai quốc gia ngay lập tức sẽ được kết nối. Johnson cho biết nước Mỹ có thể dạy Cuba nhiều hơn về cách kinh doanh khoa học. Trong khi đó, sự sáng tạo mà Cuba tích lũy suốt những thập kỷ bị cấm vận có thể được truyền lại cho đồng nghiệp của họ ở nước Mỹ.
 
Cập nhật: 23/03/2016genK.vn
 

Bộ KH&CN phê duyệt chương trình KH&CN ứng phó với biến đổi khí hậu

 
Đồng bằng sông Cửu Long đang bị đe dọa bởi ngập mặn và hạn hán (nguồn Internet)
 
Mới đây, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã ban hành Quyết định 172/QĐ-BKHCN về việc phê duyệt chương trình KH&CN cấp quốc gia “Khoa học và công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường giai đoạn 2016 -2020”.
Mục tiêu của chương trình nhằm ứng dụng có hiệu quả công cụ, mô hình tiên tiến trong giám sát biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện Việt Nam; đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của triều cường, ngập lụt, hạn hán, xâm nhập mặn do tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra tại các vùng trọng điểm (Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Hồng); cung cấp luận chứng khoa học cho việc đánh giá tiềm năng, giá trị của một số tài nguyên quan trọng trên đất liền và biển, hải đảo, đồng thời đề xuất các định hướng quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia; làm rõ quan hệ và lượng giá biến đổi khí hậu – tài nguyên – môi trường – hệ sinh thái, theo đó đề xuất các giải pháp phát triển bền vững, quản lý tổng hợp tại một số vùng trọng điểm.
 
Chương trình sẽ tập trung nghiên cứu về ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lý tài nguyên và môi trường; nghiên cứu cơ sở khoa học đối với những vấn đề có tính tổng hợp, liên ngành và liên vùng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và môi trường; lựa chọn và hỗ trợ chuyển giao các kết quả nghiên cứu đã được nghiệm thu thuộc Chương trình “Khoa học và công nghệ phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2011 – 2015”.
 
Theo đó, sản phẩm khi kết thúc chương trình sẽ xây dựng cơ chế chính sách, công nghệ, giải pháp, mô hình tính toán trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường; các mô hình trình diễn lồng ghép ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường trong quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương và các vùng trọng điểm; báo cáo tổng kết, các báo cáo chuyên đề, sách chuyên khảo, các công trình khoa học công nghệ công bố, tài liệu tập huấn.
 
Chương trình này sẽ do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì thực hiện.
 
Ánh Tuyết
 

7 công nghệ tiên tiến sẽ được dùng tại Olympic Tokyo 2020

Dù còn tới 4 năm nữa thì Olympic 2020 mới diễn ra tại Tokyo nhưng nước chủ nhà Nhật Bản đã bắt đầu chuẩn bị phục vụ sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh và người ta dự đoán rằng đây sẽ là olympic trang bị nhiều công nghệ tiên tiến nhất trong lịch sử.
 
Bên dưới đây là 7 công nghệ đang được chuẩn bị để sử dụng tại Olympic sắp tới và chắc chắn, con số này sẽ tăng lên trong thời gian tới.
 
Xe nhiên liệu hydro dùng để chở các vận động viên
 
Xe nhiên liệu hydro dùng để chở các vận động viên.
 
Công nghệ này đã và đang được đầu tư phát triển bởi nhiều hãng xe hơi trên thế giới. Tất nhiên danh sách đó không thể thiếu hãng xe hơi Toyota đến từ Nhật Bản với mẫu xe Mirai sử dụng các tế bào nhiên liệu hydro. Những chiếc xe vận hành bằng nhiên liệu hydro được cho là cho quãng đường đi được dài hơn so với pin thông thường, tuy nhiên do đòi hỏi cơ sở hạ tầng (các trạm cung cấp hydro) nên một số ý kiến đã hoài nghi về tính khả thi của công nghệ này. Và để mang xe hydro phục vụ cho thế vận hội lần này, chính phủ Nhật đã phải thiết lập các trạm cung cấp nhiên liệu trong lộ trình dự kiến đưa đón các vận động viên.
 
Khách tham quan sẽ được đi taxi tự lái
 
 
Khách tham quan sẽ được đi taxi tự lái.
 
Theo kế hoạch thì bắt đầu từ năm nay, Nhật Bản sẽ cho triển khai các dự án về dịch vụ taxi tự lái với hy vọng sẽ chính thức thương mại hóa rộng rãi vào năm 2020, đúng vào dịp Olympic Tokyo và đo đó, hành khách tham quan sẽ có dịp sử dụng loại hình dịch vụ công nghệ cao này. Hiện tại những chiếc xe taxi RoboCab đã được cho thử nghiệm lần đầu tiên tại khu vực quận Kanagawa, phía nam Tokyo. Chỉ có 50 người được dùng thử taxi tự lái trong các nhu cầu đi lại thường nhật, thí dụ như đi chợ trong phạm vi khoảng 3 km. Một công ty mang tên Robot Taxi cũng được thành lập, dự kiến sẽ trang bị đội xe công nghệ tự lái Toyota Estima để phục vụ du khách trong năm 2020.
 
" Vé điện tử" dạng vòng đeo khi bước vào sân vận động
 
 
" Vé điện tử" dạng vòng đeo khi bước vào sân vận động.
 
Chính phủ Nhật dự định sẽ sử dụng Wonder Japan Pass – một dạng vé điện tử dành cho khán giản muốn vào xem khu vực tổ chức thi đấu thể thao. Wonder Japan Pass có hình dạng như một chiếc thẻ cỡ nhỏ hoặc thiết bị đeo. Du khách sẽ dùng nó như một vé vào sân vận động, sử dụng các dịch vụ khác và thậm chí là phòng khách sạn. Mặt khác, chiếc thẻ này còn có thể tích hợp thêm nhiều dịch vụ khác, bao gồm cả thanh toán, giải trí,…
 
Người kiểm soát tại sân vận động sẽ sử dụng công nghệ nhận diện khuôn mặt để xác định danh tính du khách
 
 
Công nghệ nhận diện khuôn mặt để xác định danh tính du khách.
 
 
Sau khi quét thẻ hoặc thiết bị đeo để vào cổng sân vận động thì một hệ thống camera công nghệ nhận diện khuôn mặt sẽ được sử dụng để xác định danh tính người dùng một lần nữa trước khi họ bước vào chỗ ngồi. Được biết Nhật đã và đang triển khai công nghệ nhận diện khuôn mặt tại các địa điểm công cộng như tàu điện ngầm, sân bay,… và chắc chắn, nó sẽ được đưa vào phục vụ tại một sự kiện quan trọng như Olympic.
 
Ứng dụng trên smartphone giúp hướng dẫn cho du khách với 10 ngôn ngữ khác nhau
 
 
Ứng dụng trên smartphone giúp hướng dẫn cho du khách.
 
Không chỉ dẫn đường đi cho du khách trong các khu vực tổ chức thi đấu, tìm chỗ ngồi, chỗ vệ sinh,… mà ứng dụng này còn cung cấp thêm nhiều hướng dẫn khác về lịch thi đấu, các kết quả, đường đi tham dự cùng nhiều thông tin khác.
 
Hệ thống an ninh bao gồm hàng chục ngàn camera và cảm biến
 
 
Hệ thống an ninh hiện đại nhằm tăng cường quản lý và đảm bảo an ninh.
 
Tập đoàn điện tử Panasonic đang bắt đầu triển khai nâng cấp và lắp đặt thêm hàng chục ngàn camera quan sát, cùng nhiều cảm biến thông minh để hỗ trợ công tác an ninh khi thế vận hội diễn ra. Đồng thời, sẽ có một đội máy bay drone có gắn camera liên tục hoạt động trong khu vực thi đấu để hỗ trợ quan sát, tăng cường quản lý và bảo vệ an ninh. Một hệ thống phần mềm trí thông minh nhân tạo cũng dự kiến sẽ được áp dụng để theo dõi camera, phát hiện ra hành vi đáng ngờ nhằm có giải pháp ngăn chặn kịp thời.
 
Tạo mưa sao băng nhân tạo
 
 
Tạo mưa sao băng nhân tạo.
 
Bắn pháo hoa đã dần trở nên lỗi thời và trong sự kiện thế vận hội 2020, một nhóm khỏi nghiệp công nghệ giải trí không gian ALE đang muốn phóng các vệ tinh lên độ cao 80 km trên Trái Đất và phóng những viên pháo sáng xuống Trái Đất. Khi đi xuống, các viên vật liệu này sẽ ma sát với không khí và cháy sáng trong không trung, tạo nên hiệu ứng giống như mưa sao băng. Một đợt trình diễn như vậy dự kiến sẽ tiêu tốn khoảng 9 triệu đô la và ALE đang tìm nhà tài trợ cho ý tưởng này. Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì thử nghiệm sẽ triển khai vào năm 2018. Hironori Sahara, kỹ sư hàng không vũ trụ tại ALE cho biết: "Mưa sao băng nhân tạo không chỉ phục vụ mục đích giải trí mà còn được dùng như một công cụ hỗ trợ quan sát khí quyển."
 
Theo Tinhte.vn

Công nghệ cải tạo móng công trình trên nền đất yếu

 
Toàn cảnh Hội thảo
 
Ngày 24/3, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức Hội thảo Báo cáo kết quả khảo sát dự án khả thi phương pháp thi công công nghệ cải tạo móng công trình trên nền đất yếu (TNF).
Tham dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo và chuyên gia JICA, Trường Đại học, Công ty của Nhật Bản; đại diện một số đơn vị thuộc Bộ KH&CN, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đại diện lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long, Ninh Bình cùng các viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức KH&CN trong nước…
Hội thảo tập trung đánh giá khả năng ứng dụng phương pháp thi công TNF cho khu vực nền đất yếu của Việt Nam ở các cấp: công trình, kết cấu công trình, chất lượng, hiệu quả, tổ chức thi công và các tiêu chuẩn /quy phạm cần thiết.
 
Hội thảo cũng là dịp để các bên liên quan làm rõ vấn đề hỗ trợ quy trình, thủ tục điều kiện làm thí nghiệm kiểm chứng và triển khai dự án thí điểm tại tỉnh Vĩnh Long và một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng như: Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương để tiến hành các bước tiếp theo trong việc triển khai dự án thí điểm phương pháp thi công TNF trong thời gian tới.
 
Thực tế, một phần lớn của lãnh thổ Việt Nam có thành tạo đất yếu theo các dạng vùng biệt lập và vùng lan rộng, đặc biệt các vùng của Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng ven biển miền Trung. Nhiều thành phố và thị trấn quan trọng được hình thành và phát triển trên nền đất yếu với những điều kiện khó khăn, suất đầu tư cao, tổ chức thi công phức tạp, nhất là các công trình dân dụng. Yêu cầu cần thiết đòi hỏi đổi mới và phát triển công nghệ thích hợp và tiên tiến để xử lý thi công các công trình xây dựng dân dụng trên nền đất yếu với tính năng vượt trội, giảm chi phí, dễ thi công, an toàn và đảm bảo chất lượng.
 
Công nghệ TNF là phương pháp xử lý kết hợp các lớp sâu – lớp nông sử dụng vật liệu kiên cố hóa bằng xi măng với nguyên tắc: thiết kế nền nhân tạo và quản lý chất lượng. Vì móng được thi công trực tiếp ở lớp cải tạo thứ hai nên giảm được chi phí và có thể hoàn thành trong thời gian ngắn. Cấu trúc hình giếng và “hiệu quả rào bao” có được nhờ vây bọc đất cát lại, có thể tăng cao tính ổn định khi xây dựng nhà cửa trên nền đất.
 
Tại Hội thảo, đại diện JICA đã giới thiệu phương pháp thi công TNF của Công ty xây dựng Takeuchi Nhật Bản.  Từ tháng 7/2015, phía  JICA đã hỗ trợ triển khai dự án khảo sát tính khả thi phương pháp thi công TNF tại khu vực đất yếu Việt Nam trong chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ đã hỗ trợ các tổ chức của Nhật Bản với các đơn vị liên quan của Việt Nam để triển khai dự án. Đến nay, dự án cơ bản đã hoàn thành các nội dung đề ra.
 
Đến nay, qua 6 lần khảo sát cho thấy, công nghệ TNF đã làm giảm lún lệch nhờ tiến hành cải tạo nông nền đất của công trình, là phương pháp hạn chế lún lệch của công trình. Dự án đã tiến hành khảo sát và giám định thi công TNF cho móng công trình công cộng một số địa phương ở Việt Nam, nhằm làm phương pháp thực chứng tính an toàn của công nghệ TNF. Công nghệ TNF đã khẳng định là công nghệ có ưu điểm là kỹ thuật riêng biệt dựa theo loại tiêu chuẩn của Việt Nam (TCVN, TCCS) và tiêu chuẩn này có quan hệ với phương pháp cải tạo đất của Nhật Bản.
 
Tin, ảnh: Bùi Hiếu
 

Bồi dưỡng kĩ năng lãnh đạo, quản lý cấp phòng

 
Toàn cảnh lớp bồi dưỡng kĩ năng quản lý cấp phòng
 
Từ ngày 24/3-22/4, Trường quản lý Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ tổ chức lớp “Bồi dưỡng kĩ năng lãnh đạo, quản lý cấp phòng”.
Tham dự lớp học có hơn 40 học viên từ các đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN.
 
Phát biểu tại Lễ khai giảng, TS. Vũ Trường Sơn, Hiệu trưởng Trường Quản lý KH&CN cho biết, khóa học có ý nghĩa quan trọng trong việc cập nhật và nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ lãnh đạo cấp vụ để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đáp ứng tốt những yêu cầu cơ bản đối với công chức giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương. 
 
Đặc biệt, tham dự lớp học sẽ giúp cho các học viên có được nền tảng kiến thức trong xử lý công việc, giúp tự tin hơn trong công việc. Đồng thời, trong thời gian tham gia khóa học, các học viên sẽ có cơ hội để hiểu biết lẫn nhau, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm quản lý.
 
Theo kế hoạch, khóa học sẽ được tổ chức trong thời gian 1 tháng với sự tham gia giảng dạy của đội ngũ giảng viên và các báo cáo viên cao cấp trong và ngoài trường. Học viên được giới thiệu 10 chuyên đề kiến thức như: lãnh đạo cấp phòng và vận dụng kiến thức, kĩ năng của lãnh đạo cấp phòng; kĩ năng cập nhật và áp dụng pháp luật trong công tác; khiến thức, kĩ năng quản lý và lãnh đạo cấp phòng; kĩ năng lập và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác của lãnh đạo cấp phòng; kĩ năng tham mưu của lãnh đạo cấp phòng; kĩ năng quản lý và phát triển nhân sự của lãnh đạo cấp phòng; phân tích và phát triển tổ chức; những vấn đề thực tiễn trong quản lý KH&CN; kĩ năng xây dựng nhiệm vụ KH&CN; đổi mới sáng tạo.
 
Ngay buổi học đầu tiên, các học viên tham gia lớp học đã có sự trao đổi cởi mở, chia sẻ nhiều ý kiến có giá trị thực tiễn sâu sắc. Không khí thảo luận sôi nổi, tương tác cao thể hiện sự quan tâm và nhu cầu tự thân của các học viên trong việc nâng cao năng lực quản lý, lãnh đạo. Bên cạnh đó, khóa học sẽ tổ chức đợt khảo sát thực tế. Kết thúc khóa học, các học viên đủ điều kiện sẽ được trao chứng chỉ.
 
 Ánh Tuyết – Thu Hiền
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Tăng ứng dụng công nghệ để tiết kiệm nước

 
Ảnh minh họa (nguồn: Internet)
 
Nước là tài nguyên sẵn có, nhiều, nhưng không vô tận, do đó cần được sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả. Ứng dụng công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng để tiết kiệm nước trong khi vẫn phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ.
Đây là những khuyến nghị của các chuyên gia, nhà khoa học đưa ra tại một hội thảo do Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) tổ chức gần đây.
Việt Nam vẫn thiếu nước
 
Theo Bộ TN&MT, Việt Nam có 108 lưu vực sông, với 3.450 sông, suối tương đối lớn và tổng lượng nước trung bình hằng năm khoảng 830 tỉ m3, trong đó có 300 tỉ m3 là trong lãnh thổ (chiếm 40%) và khoảng trên 500 tỉ m3 là nước từ ngoài lãnh thổ. Diện tích các lưu vực sông chiếm 80% diện tích của cả nước. Lượng mưa trung bình hằng năm là 1.960 mm.
 
Nước ngầm dù có tiềm năng ước tính khoảng 63 tỉ m3/năm nhưng chỉ tập trung ở một số khu vực như đồng bằng Bắc bộ, đồng bằng Nam bộ và khu vực Tây Nguyên. Con số này nếu so với thế giới thì Việt Nam ở mức dưới trung bình.
 
Theo các kết quả nghiên cứu, cứ 25 năm nhu cầu nước ngọt trên toàn thế giới tăng gần 2 lần do quy mô tăng dân số, trong đó, 74-85% nước được dùng cho sản xuất nông nghiệp.
 
Thực tế cho thấy, nguồn tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, hiệu quả sử dụng thấp, nguồn nước ô nhiễm, lũ lụt, hạn hán, các hiện tượng xâm nhập mặn cũng như biến đổi khí hậu, nước biển dâng…
 
Theo Hiệp hội Tài nguyên nước Quốc tế (IWRA), lượng nước mặt bình quân theo đầu người của Việt Nam năm 2015 chỉ có 3.850 m3. Như vậy, so với ngưỡng trung bình 4.000 m3/năm, Việt Nam thuộc vào nhóm quốc gia thiếu nước.
 
Hai hướng nghiên cứu công nghệ tiết kiệm nước
 
Với bức tranh toàn cảnh về nguồn và nhu cầu sử dụng nước nêu trên, các chuyên gia khẳng định cần tập trung vào phát triển các công nghệ duy trì và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước ngọt hiện có và tạo nguồn nước ngọt mới từ nước biển.
 
Tương ứng với những “đề bài” này, theo ông Ngô Văn Mơ, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng khoa học công nghệ, Bộ TN&MT cho biết, hiện đang có hai hướng nghiên cứu chính là tạo và phát triển các công nghệ nhằm tái tạo, tái sử dụng và giảm thiểu việc sử dụng nước ngọt; và phát triển các công nghệ có giá thành thấp nhằm tách muối, lọc mặn nước biển thành nước ngọt. Nhiều nơi trên thế giới đã triển khai trên thực tế những nghiên cứu này. Như tại thành phố Perth (Australia), 20% tổng lượng nước cung ứng cho khu vực này là nước thải đã qua xử lý. Hay như tại Israel, nước này đã xây dựng nhà máy khử mặn nước biển cung cấp hơn 600.000 m3 nước sinh hoạt, đáp ứng 20% tổng nước sinh hoạt cho cả quốc gia này với chi phí 400 triệu USD.
 
Tại Việt Nam, trong thời gian gần đây, các nhà khoa học đã tích cực nghiên cứu theo các hướng nghiên cứu phổ biến nêu trên. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tích cực trong việc ứng dụng những thành quả nghiên cứu như công nghệ thủy lợi thông minh, tưới tiết kiệm nước… để áp dụng trong thực tế.
 
Khuyến khích ứng dụng công nghệ bằng chính sách
 
Là một quốc gia bị ảnh hưởng trầm trọng nhất của biến đổi khí hậu, dự báo không lâu nữa, nhiều vùng tại Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ thiếu nước sinh hoạt trầm trọng.
 
Trong bối cảnh đó, việc chỉ đạo các hướng nghiên cứu và các chính sách hỗ trợ nghiên cứu đã được quan tâm ở tất cả các cấp, từ Chính phủ tới các bộ, ngành. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ trong sản xuất nhằm sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nước.
 
Cụ thể, ngày 8/6/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2015/NĐ-CP quy định ưu đãi về vay vốn, miễn, giảm thuế đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
 
Theo đó, Nhà nước sẽ ưu tiên hỗ trợ vốn nếu đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo nâng cấp hạng mục công trình để thu gom, xử lý nước thải có quy mô từ 40 m3/ngày đêm trở lên, đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước phù hợp với mục đích được tái sử dụng và sử dụng lượng nước đó cho các hoạt động của tổ chức đạt từ 80% trở lên; tổ chức đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo nâng cấp, đầu tư chiều sâu hạng mục công trình để sử dụng nước tuần hoàn cho các hoạt động của đơn vị với quy mô từ 500 m3/ngày đêm trở lên…
 
Việc ưu đãi vốn đầu tư cũng được áp dụng cho các dự án thu gom nước mưa để sử dụng cho sinh hoạt tại các địa bàn vùng núi, vùng khó khăn; khử muối từ nước lợ, nước mặn thành nước ngọt để sử dụng cho mục đích sinh hoạt…
 
Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân áp dụng công nghệ, kỹ thuật, biện pháp tưới tiết kiệm nước trong sản xuất nông nghiệp với quy mô từ 0,5 ha trở lên đối với tưới lúa nước, 1 ha trở lên đối với tưới cây trồng cạn cũng được hưởng ưu đãi.
 
Bên cạnh ưu đãi về vốn là các ưu đãi đối với hoạt động đầu tư sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, thiết bị, công nghệ sử dụng nước tiết kiệm. Chẳng hạn, doanh nghiệp được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập có được từ hoạt động đầu tư sản xuất sản phẩm, thiết bị, công nghệ sử dụng nước tiết kiệm theo quy định của pháp luật về thuế.
 
Với những chính sách ưu đãi cụ thể nêu trên, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm sẽ được đẩy mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên trước những diễn biến bất thường của thiên nhiên, đặc biệt là nhận thức về hậu quả của việc thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất, theo các nhà khoa học, Chính phủ cần phải có thêm nhiều chính sách ưu đãi mạnh hơn nữa, để khuyến khích không chỉ việc ứng dụng công nghệ, mà còn cả các hoạt động nghiên cứu theo các xu hướng chung của thế giới.
 
Nguồn tin: Báo điện tử Chính phủ
 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc với Bộ KH&CN về hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật phát triển KH&CN

 
Ngày 19/01, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ về “Hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2005 – 2015 và định hướng phát triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo”.
Tham dự buổi làm việc có Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng làm  Trưởng Đoàn giám sát; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ môi trường của Quốc hội Lê Bộ Lĩnh làm Phó Trưởng đoàn thường trực đoàn giám sát. Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ có Bộ trưởng Nguyễn Quân và đại diện lãnh đạo các đơn vị có liên quan.
 
Giai đoạn 2011-2015 môi trường thể chế và hệ thống pháp luật về KH&CN tiếp tục được đổi mới hoàn thiện, Nghị quyết TW 6, khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vai trò quốc sách hàng đầu và động lực then chốt của KH&CN trong sự nghiệp phát triển đất nước; Luật KH&CN năm 2013 cùng với hệ thống các văn bản dưới Luật được ban hành khá đồng bộ kịp thời cụ thể hóa và đưa tinh thần đổi mới của Luật đi vào cuộc sống, các đổi mới tích cực tập trung vào 3 nhóm chế định: đầu tư tài chính; chính sách cán bộ; quản lý hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN.
 
Báo cáo với Đoàn giám sát, Bộ trưởng Nguyễn Quân khẳng định Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đã được Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, ngành, địa phương triển khai tích cực, đúng định hướng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Một số mục tiêu đề ra của Chiến lược đã đạt được và có khả năng đạt được cao hơn vào năm 2020; Tiềm lực và trình độ KH&CN của Việt Nam được từng bước nâng cao, số lượng bài báo, công bố khoa học được công bố quốc tế và sáng chế của người Việt Nam tuy còn khiêm tốn nhưng cũng được gia tăng hàng năm; tốc độ đổi mới công nghệ, năng lực công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp được tăng cường; khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu ở một số lĩnh vực khoa học công nghệ có thế mạnh.
 
KH&CN đã có đóng góp quan trọng, thiết thực trong phát triển kinh tế, xã hội, Việt Nam đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo tiền đề hình thành một số lĩnh vực KH&CN đa ngành mới như vũ trụ, y sinh, nano, hạt nhân; một số lĩnh vực có thế mạnh như toán học, vật lý lý thuyết đạt thứ hạng cao trong ASEAN; có khả năng thiết kế và chế tạo thành công nhiều công nghệ, thiết bị nội địa đạt tiêu chuẩn quốc tế; có năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ mới trong một số ngành thiết yếu như điện, điện tử, dầu khí, đóng tầu, xây dựng, ý tế…
 
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được cho thấy qua 5 năm triển khai Chiến lược, đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có phát triển về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu. Trình độ khoa học và công nghệ quốc gia nhìn chung còn tụt hậu xa so với thế giới, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế.
 
Trong quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, còn thiếu các hướng ưu tiên phù hợp, các chính sách, giải pháp mạnh mẽ để tạo đột phá trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Chính vì vậy chưa hình thành được các lĩnh vực khoa học, công nghệ mũi nhọn, đạt trình độ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh bình đẳng với khu vực và thế giới.
 
Tại buổi làm việc, Đoàn giám sát cũng đã nghe báo cáo về trách nhiệm quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ của Bộ Khoa học và Công nghệ trong lĩnh vực được giao: Quản lý nhà nước về nghiên cứu và phát triển; tiêu chuẩn, đo lường, chất lược; sở hữu trí tuệ; năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ hạt nhân; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; thông tin, thống kê khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ. 
 
Các thành viên Đoàn giám sát đã tập trung trao đổi, đặt các vấn đề cụ thể như Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đã gắn với việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như thế nào; đâu là nguyên nhân một số mục tiêu cụ thể của Chiến lược không đạt được như mục tiêu về số lượng viện nghiên cứu đạt trình độ khu vực và thế giới, số lượng các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, đặc biệt là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chậm..
 
Do đó Đoàn giám sát cho rằng trong giai đoạn tới, cùng với việc tổ chức thực hiện tốt hơn các chiến lược khoa học công nghệ hiện nay thì cần phải đưa mục tiêu nhiệm vụ của khoa học công nghệ vào mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, cần triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm quốc gia để nhanh chóng nâng cao tiền năng công nghệ của doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.
 
Tin, ảnh: Hạnh Nguyên
 
 
 
 

Phát hiện gây chấn động ngành công nghiệp năng lượng của nhân loại

Giới chuyên gia hi vọng, phát hiện mới này của mình sẽ mở ra hướng đi mới cho việc tái tạo và tăng năng lượng hấp thu từ Mặt trời.
 
Công nghiệp khai thác tế bào năng lượng Mặt trời đang ở đỉnh cao của một cuộc cách mạng, và mới đây, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một phương pháp mới để thúc đẩy hiệu quả và giúp tái tạo lại ánh sáng.
 
Pin Mặt trời sử dụng vật liệu perovskites heli chì lai.
 
Cụ thể, giới chuyên gia đã xem xét những đặc tính của vật liệu perovskites heli chì lai – nhóm những vật liệu được sử dụng để tạo sóng trong công nghệ năng lượng Mặt trời. Qua đó, họ còn chỉ ra khả năng của vật liệu này trong việc hấp thụ năng lượng Mặt trời, tạo ra dòng điện trở và sau đó tự sản xuất ra năng lượng ánh sáng.
 
Chưa dừng lại ở đó, các nhà khoa học còn chứng minh rằng, những tấm pin Mặt trời này có thể sản xuất với giá thành rẻ bằng các chất liệu tổng hợp, từ đó tăng tính khả thi trong việc sản xuất kinh doanh thương mại sản phẩm này.
 
 
Pin Mặt trời theo công nghệ mới có khả năng tái tạo lại ánh sáng.
 
"Chúng ta đã biết về khả năng của những vật liệu này trong việc hấp thụ ánh sáng và tạo ra những pin điện. Nhưng giờ đây, chúng ta đã biết thêm về khả năng tổ hợp lại để tái sản xuất các photon một lần nữa".
 
Được biết, pin Mặt trời hoạt động nhờ hấp thụ năng lượng ánh sáng – photon – từ Mặt trời, chuyển đổi năng lượng này thành điện tích và sau đó truyền điện tích tới điện cực để giúp sản sinh năng lượng điện cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau.
 
Vật chất perovskites heli chì lai được biết đến nhờ khả năng thực hiện công việc một cách hiệu quả. Tuy nhiên, theo Deschler vật chất này còn có khả năng "tuyệt" hơn thế – chúng có thể phát ra ánh sáng sau khi tạo ra điện tích và hấp thụ lại năng lượng ánh sáng ngay sau đó.
 
 
Pin Mặt trời có khả năng sản xuất nhiều năng lượng hơn để tăng lượng điện áp hấp thụ được từ một lượng ánh sáng nhất định.
 
Kết quả là, pin Mặt trời hoạt động như một bộ tập trung, có khả năng sản xuất nhiều năng lượng hơn để tăng lượng điện áp hấp thụ được từ một lượng ánh sáng nhất định. Loại pin mới này hiệu quả hơn những tấm pin được chế tạo từ vật liệu không có khả năng tái chế.
 
Deschler nhận định: "Tầm quan trọng của vấn đề này nằm ở chỗ những ghi nhận hiện tại về hiệu quả của pin photon chỉ vào khoảng 20-21%, trong khi giới hạn tối đa có thể lên tới 33%. Và phát hiện mới này sẽ mở đường cho việc đạt tới giới hạn tối đa đó".
 
Được biết, William Shockley và Hans Queisser đã đưa ra lý thuyết về nhiệt động lực học đã chỉ ra hiệu suất năng lượng mặt trời có thể lên tới 33% vào năm 1961. Họ nhận định rằng, con số này rất khó có thể vượt qua.
 
 
Phát hiện mới này mở đường cho việc đạt tới giới hạn tối đa của pin photon.
 
Nếu những tạp chất tồn tại trong cấu trúc tinh thể, vật liệu sẽ trở nên hỗn tạp và rất khó hấp thụ ánh sáng. Tuy nhiên, việc loại bỏ những tạp chất sẽ giúp hiệu quả hấp thụ ánh sáng cao và trở nên dễ dàng hơn.
 
Các chuyên gia hi vọng rằng, nghiên cứu mới này sẽ không chỉ là bước tiến mới giúp chúng ta có thể chạm tới số trần của hiệu suất năng lượng Mặt trời mà còn mở ra hướng đi mới về nghiên cứu vật liệu và tận dụng năng lượng Mặt trời hiệu quả hơn.
 
Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Science.
 
Theo Trí Thức Trẻ

Công nghệ chữa chấn thương gan – thận ít đau, giá rẻ

Nếu như trước đây, bệnh nhân cần điều trị bảo tồn chấn thương thận bằng can thiệp mạch phải sang Singapore hoặc Thái Lan, tốn 200-300 triệu đồng (chưa kể tiền nằm viện) thì nay đã có thể điều trị trong nước với chi phí chỉ 10-30 triệu đồng.
 
Đây là thành quả của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật can thiệp mạch và phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan và thận” do PGS-TS Nguyễn Tiến Quyết – nguyên Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức – làm chủ nhiệm.
 
Đề tài thuộc chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước lĩnh vực y – dược (mã số KC.10/11-15: Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng).
 
 
Nhiều kỹ thuật phức tạp đã được các bác sỹ, nhà khoa học Việt Nam làm chủ.Ảnh: HV
Bệnh nhân bớt đau, mất ít máu
 
Đề tài này đã được các nhà khoa học nghiên cứu, thực hiện trong gần 3 năm, với mục tiêu xây dựng được quy trình can thiệp nội mạch và phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan, thận. Can thiệp nội mạch và phẫu thuật nội soi ổ bụng là hai phương pháp điều trị can thiệp ít xâm lấn mới, là lựa chọn hàng đầu của các bác sỹ.
 
Hai phương pháp này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong điều trị chấn thương tạng đặc để làm tăng khả năng bảo tồn gan và thận, đồng thời làm giảm các biến chứng trong và sau điều trị bảo tồn chấn thương hai cơ quan nội tạng này.
 
Phẫu thuật nội soi là phương pháp an toàn, giúp chẩn đoán và xử trí hiệu quả các tổn thương ở gan và thận, đồng thời cho phép các bác sỹ điều trị các tổn thương phối hợp khác trong ổ bụng bệnh nhân.
 
Ngoài khả năng bảo tồn gan và thận bị chấn thương, phẫu thuật nội soi còn giúp giảm đau cho bệnh nhân sau mổ. Những người được điều trị tổn thương gan, thận bằng phương pháp này phục hồi lưu thông tiêu hóa sớm hơn, thời gian nằm viện được rút ngắn, lượng máu cần truyền thấp hơn nhiều so với mổ mở. Đó là chưa kể với phẫu thuật nội soi, nguy cơ nhiễm trùng, biến chứng của bệnh nhân thấp hơn rất nhiều so với mổ mở.
 
PGS Nguyễn Tiến Quyết cho biết, do nhận thức được lợi thế tối ưu của kỹ thuật này, nhóm nghiên cứu đã sang Cộng hòa Pháp học tập, cập nhật kiến thức tiên tiến về phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan và thận: “Đoàn công tác đã cập nhật những kiến thức mới nhất về phẫu thuật nội soi ổ bụng từ các chuyên gia hàng đầu của Pháp, sau đó nghiên cứu triển khai các kỹ thuật này tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Hà Nội trong phạm vi đề tài”.
 
PGS-TS Nguyễn Tiến Quyết cũng cho biết, đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng được những chỉ định, quy trình kỹ thuật can thiệp mạch và phẫu thuật nội soi chuẩn trong điều trị chấn thương gan, thận, đạt được tính khoa học, hiện đại, cập nhật và có tính thực tiễn cao. Hiện nay, các quy trình kể trên đã được áp dụng rộng rãi trong điều trị cấp cứu chấn thương gan, thận tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, làm tăng khả năng bảo tồn tạng chấn thương và giảm được tỷ lệ mổ mở trong cấp cứu.
 
Trong đề tài này, quy trình phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan, thận có tỷ lệ thành công đạt 75%, giúp bảo tồn chức năng gan, thận, tỷ lệ tai biến và biến chứng dưới 10%.
Việc ứng dụng quy trình can thiệp mạch để điều trị bệnh nhân chấn thương gan và thận cho các bệnh nhân đều đạt kết quả tốt. Tỷ lệ nút mạch cầm máu thành công đạt 98% đối với chấn thương gan và 96,7% sau lần nút đầu đối với chấn thương thận. Không có bệnh nhân nào phải chỉ định mổ mở để cầm máu.
 
Chi phí có thể giảm đến 10 lần
 
Theo giới chuyên môn, thông thường một bệnh nhân điều trị bảo tồn chấn thương thận bằng can thiệp mạch trước đây phải sang Singapore hoặc Thái Lan. Họ sẽ phải trả tiền điều trị khoảng 200-300 triệu đồng, ngoài ra còn phải tốn một khoản lớn khác cho chi phí nằm viện, tiền vé máy bay, đi lại… Từ khi Việt Nam làm chủ được kỹ thuật này, người bệnh chỉ phải trả từ 10-30 triệu đồng tùy chủng loại trang thiết bị, vật liệu. Mức phí này giúp cho những bệnh nhân thu nhập trung bình có cơ hội được điều trị bằng kỹ thuật cao.
 
Còn với phương pháp phẫu thuật nội soi, các bệnh nhân chấn thương gan và thận tiết kiệm được tổng chi phí đáng kể so với phẫu thuật mở do giảm được thời gian mổ, giảm lượng thuốc gây mê, lượng máu và dịch truyền trong ca mổ, rút ngắn từ một nửa đến 2/3 thời gian nằm viện cũng như giảm chi phí chăm sóc.
 
TS Nguyễn Tiến Quyết cho biết, hiện Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã tổ chức triển khai và chuyển giao kỹ thuật “điều trị bảo tồn chấn thương tạng đặc” – bao gồm cả 4 nội dung của đề tài nghiên cứu “Ứng dụng kỹ thuật can thiệp mạch và phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan và thận” – cho 7 bệnh viện vệ tinh tuyến tỉnh khu vực phía bắc.
 
Hà Vy
 

Cần quy hoạch lại diện tích trồng lúa và diện tích canh tác, nuôi trồng giống cây, vật nuôi phù hợp

 
 
Cánh đồng lúa đến kỳ thu hoạch bị chết khô, nứt nẻ vì khô hạn, nhiễm mặn kéo dài ở Đồng bằng sông Cửu Long.
(Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)
 
Trước thực trạng đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với đợt hạn và mặn lịch sử trong vòng 100 năm qua, nhiều câu hỏi đặt ra về việc ngành khoa học sẽ vào cuộc như thế nào để giúp người dân “sống chung với mặn.”
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã có cuộc trao đổi với báo chí về vấn đề này.
– Thưa Bộ trưởng, trước tình trạng biến đổi khí hậu, xâm ngập mặn diễn ra ngày càng nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Theo Bộ trưởng, để chống ngập mặn, chúng ta phải làm gì?
Một là chúng ta phải nghiên cứu những giống cây chịu mặn cho năng suất và chất lượng tốt và thực tế, tại Đại học Cần Thơ đã nghiên cứu được giống lúa chịu mặn, năng suất cao nhưng chất lượng của loại gạo này lại có vấn đề. Tuy nhiên, đây cũng là giải pháp sau này chúng ta có thể phát triển để đảm bảo an ninh lương thực.
 
Hướng thứ hai là cần quy hoạch lại diện tích để những đất trồng lúa tốt thì giữ cho mặn không xâm nhập. Còn những vùng đất đã bị nhập mặn và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu sẽ đưa giống cây, vật nuôi phù hợp.
 
Về thủy lợi, ngoài biện pháp làm đê ngăn mặn, tạm thời chúng ta có thể ứng dụng kết quả nghiên cứu của ngành thủy lợi về đập sà lan. Khi mực nước xuống thấp thì dùng đập chắn để dâng cao mực nước ngọt. Như vậy có thể giảm bớt việc xâm ngập mặn và giữ được nước ngọt cho cây lúa.
 
Tuy nhiên, đây là giải pháp tạm thời và phải nghiên cứu để đảm bảo nước ngọt cho cả vùng đồng bằng rộng lớn, chống xói lở khi phù sa không về.
 
– Với tình hình biến đổi khí hậu, có ý kiến cho rằng nên sử dụng cây trồng biến đổi gene. Quan điểm của Bộ trưởng về vấn đề này thế nào?
 
Ở Việt Nam, nghiên cứu cây trồng biến đổi gene không phải là ít và cũng không mới.
 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học có 2 quan điểm trái ngược. Một là mong muốn phát triển loại cây trồng này để thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh… Ở chiều ngược lại, người ta cho rằng cây trồng biến đổi gene vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Ngay cả nghiên cứu khoa học của thế giới cũng chưa có ai khẳng định tác hại về lâu dài của công nghệ này thế nào.
 
Hiện, có nhiều quốc gia trên thế giới cấm, nhưng cũng có những nước khác lại ủng hộ, phát triển mạnh loại cây trồng này. Hiện, có nhiều công trình nghiên cứu, giống cây biến đổi gene tại Việt Nam, có giống cây do Việt Nam tạo ra nhưng đưa nó trở thành cây trồng chính trên diện tích rộng thì phải rất cẩn trọng.
 
Thưa Bộ trưởng, về việc giúp nông dân chống hạn, mặn, Bộ Khoa học và Công nghệ có chỉ đạo gì cho các đơn vị trực thuộc tập trung vào nghiên cứu, giải quyết vấn đề này?
 
Thực ra các đơn vị nghiên cứu không trực thuộc Bộ KH&CN nên chúng tôi không chỉ đạo trực tiếp. Tuy nhiên, qua làm việc với các đơn vị như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Tài Nguyên và Môi trường…, chúng tôi đưa ra khuyến cáo. Từ đó, các cơ quan này sẽ đưa ra định hướng để các đơn vị, tập đoàn tập trung nghiên cứu định hướng mà chúng tôi khuyến cáo.
 
Về phía mình, chúng tôi lo bố trí kinh phí và tìm cách phối hợp các đơn vị nghiên cứu của các bộ ngành với nhau để các kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng một cách hiệu quả hơn.
 
– Xin cảm ơn Bộ trưởng!
 
Nguồn: http://www.vietnamplus.vn/phai-nghien-cuu-giong-cay-chiu-man-cho-dong-bang-song-cuu-long/378472.vnp