Viettel xây trung tâm dữ liệu lớn nhất tại Việt Nam

Trung tâm dữ liệu của Viettel được xây tại Khu công nghiệp Tân Phú Trung, huyện Củ Chi có công suất thiết kế 140 MW, thuộc top 10 Đông Nam Á.

Trong lễ khởi công chiều 23/4 tại TP HCM, Viettel cho biết dự án được triển khai trên diện tích gần 4 hecta, tổng công suất điện theo thiết kế 140 MW, cho phép lắp đặt khoảng 10.000 tủ rack, dự kiến hoạt động giai đoạn đầu từ quý 1/2026 và hoàn thành toàn bộ dự án trước năm 2030.

Khi hoàn thành, đây dự kiến là trung tâm dữ liệu (DC) đầu tiên của Việt Nam đạt công suất trên 100 MW, còn gọi là quy mô siêu lớn, tương đương các trung tâm dữ liệu lớn trên thế giới. Trước đó, tháng 4/2024, Viettel cũng mở trung tâm dữ liệu với công suất 30 MW, đáp ứng quy mô hơn 2.400 tủ rack tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội), là DC có công suất lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.

Ảnh dựng khu trung tâm dữ liệu 140 MW của Viettel tại Tân Phú Trung. Ảnh: VT

Ảnh dựng khu trung tâm dữ liệu 140 MW của Viettel tại Tân Phú Trung. Ảnh: VT

Theo công bố của tập đoàn, DC tại Tân Phú Trung được thiết kế và vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế Uptime Tier III, mật độ công suất trung bình 10 kW/rack, gấp 2,5 lần mức trung bình hiện nay tại Việt Nam. Công suất rack cao nhất có thể đạt 60 kW, đủ đáp ứng nhu cầu tính toán hiệu năng cao của các mô hình và ứng dụng trí tuệ nhân tạo quy mô lớn.

Để đạt được mật độ này, đơn vị áp dụng công nghệ làm mát mới, hệ thống quản lý dựa trên trí tuệ nhân tạo do công ty phát triển, đồng thời ứng dụng công nghệ mới, vật liệu tiên tiến. DC dự kiến đạt chỉ số hiệu quả sử dụng năng lượng (PUE) dưới 1,4.

“Trung tâm dữ liệu quy mô siêu lớn tại Tân Phú Trung không phải một công trình đơn lẻ mà là mảnh ghép có tầm quan trọng chiến lược trong bức tranh tổng thể về hạ tầng số mà Viettel đang tiếp tục tạo dựng”, Thiếu tướng Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Viettel, nói tại sự kiện.

Ông cho biết tập đoàn có 15 trung tâm dữ liệu đang hoạt động ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM, Bình Dương. Năm nay, họ dự kiến hoàn thành 20.000 trạm phát sóng 5G, đảm bảo phủ 95% khu vực trung tâm dân cư đô thị trên cả nước.

Phó chủ tịch UBND TP HCM Võ Văn Hoan đánh giá trung tâm dữ liệu Viettel ở Củ Chi có thể trở thành nơi trung chuyển dữ liệu quan trọng, thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ toàn cầu đến đầu tư và hoạt động tại Việt Nam, đóng vai trò điểm kết nối băng thông rộng từ TP HCM đến các khu vực trọng yếu trên thế giới. Ngoài ra, đây được kỳ vọng là động lực giúp TP HCM phát triển hạ tầng số, xây dựng đô thị thông minh và chính quyền số.

Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ giữa tháng 3, có bốn doanh nghiệp dự kiến đầu tư trung tâm dữ liệu quy mô lớn (hyper scale) với tổng công suất 220 MW. Bộ đánh giá hạ tầng trung tâm dữ liệu của Việt Nam có nhiều bước tiến, tuy nhiên tổng công suất mới đạt 182 MW, cách xa mục tiêu 870 MW vào năm 2030, và chỉ có một DC quy mô siêu lớn 30 MW.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của hạ tầng số. Hạ tầng số được tạo thành từ các mảnh ghép gồm hạ tầng viễn thông băng rộng, hạ tầng điện toán đám mây, hạ tầng công nghệ số và các nền tảng số. “Hạ tầng số là hạ tầng chiến lược, giống như giao thông, điện. Hạ tầng luôn phải đi trước, đầu tư trước, có tầm nhìn xa, có khả năng mở rộng cho hàng chục năm”, Bộ trưởng nói. “Hạ tầng số Việt Nam phải đảm bảo băng thông siêu rộng, phổ cập, bền vững, thông minh, mở, xanh và an toàn”.

Huy Đức – Lưu Quý

Viettel xây trung tâm dữ liệu lớn nhất tại Việt Nam – Báo VnExpress

Thiết kế trực thăng của da Vinci giúp drone chạy êm hơn

Mô phỏng mẫu trực thăng do Leonardo da Vinci thiết kế năm 1480 cho thấy nó sử dụng ít năng lượng hơn so với rotor drone hiện đại.

Phác họa trực thăng của Leonardo da Vinci. Ảnh: Passei Direto

Phác họa trực thăng của Leonardo da Vinci. Ảnh: Passei Direto

Theo New Scientist, nhà nghiên cứu Rajat Mittal tại Đại học Johns Hopkins ở Maryland và đồng nghiệp phát hiện mẫu trực thăng được danh họa Leonardo da Vinci đề xuất khi làm kỹ sư quân sự vào năm 1480 (nhưng chưa bao giờ chế tạo hay thử nghiệm) có thể cần ít năng lượng hơn để tạo ra cùng lực nâng như rotor drone thông thường.

Cỗ máy của da Vinci có hình dáng tương tự vít Archimedes, máy bơm hình xoắn ốc vận chuyển nước khi quay. Ông hình dung mẫu trực thăng này hoạt động nhờ sức người, khiến việc cất cánh trở nên khó khăn do trọng lượng. Nhưng với động cơ điện nhẹ làm quay rotor, nó có thể thực sự bay được.

Mittal và đồng nghiệp xây dựng bản mô phỏng mẫu trực thăng và đặt trong đường hầm gió ảo để xem nó hoạt động như thế nào khi lơ lửng tại chỗ, thử nghiệm ở nhiều tốc độ quay khác nhau và so sánh với rotor drone thông thường có hai cánh. Họ phát hiện thiết kế này có thể tạo ra cùng một lực nâng trong khi quay chậm hơn, có nghĩa tiêu thụ ít năng lượng hơn giải pháp hiện đại. Bằng cách đo lường mẫu áp suất và luồng gió di chuyển xung quanh trực thăng, nhóm nghiên cứu có thể tính toán lượng âm thanh nó tạo ra.

Các nhà nghiên cứu đang muốn xem xét liệu họ có thể cải thiện thiết kế của da Vinci để hiệu quả hơn trong khi vẫn duy trì đặc tính giảm tiếng ồn hay không. Khi drone ngày càng được sử dụng phổ biến trong thành phố như giao hàng tận nhà hoặc dịch vụ khẩn cấp, ô nhiễm tiếng ồn trở thành vấn đề lớn, thôi thúc nhà nghiên cứu tìm kiếm thiết kế rotor mới hoạt động êm hơn mà không ảnh hưởng tới lực nâng.

Tuy nhiên, để chứng minh thiết kế của da Vinci có thể hữu ích trong thực tế, họ cần thử nghiệm cách nó hoạt động khi bay qua không khí, thay vì chỉ lơ lửng, cũng như xem xét cách trọng lượng thêm của rotor có thể ảnh hưởng đến hiệu suất.

An Khang (Theo New Scientist)

Thiết kế trực thăng của da Vinci giúp drone chạy êm hơn – Báo VnExpress

TP HCM làm hồ sơ trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia từ 27/6

Từ 18h ngày 27/6, người dân TP HCM có thể làm hồ sơ trên Cổng dịch vụ công quốc gia theo mô hình quản lý địa phương hai cấp mới.

Theo Trung tâm Chuyển đổi số TP HCM, thành phố sẽ tiến hành kết nối, triển khai thử nghiệm trên Cổng dịch vụ công quốc gia theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Cổng dịch vụ công quốc gia sẽ trở thành “một cửa số” tập trung, duy nhất trong việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp.

“Đây là bước đi quan trọng nhằm bảo đảm sự liên thông, đồng bộ, hiệu quả, không bị gián đoạn trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính và triển khai mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp”, thông báo nêu. “Việc triển khai Cổng dịch vụ công quốc gia làm điểm ‘một cửa số’ tập trung là bước chuyển quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, giúp tinh giản thủ tục, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, hướng đến xây dựng một nền hành chính minh bạch, lấy người dân làm trung tâm”.

Giao diện website Cổng dịch vụ công quốc gia. Ảnh: Bảo Lâm

Giao diện website Cổng dịch vụ công quốc gia. Ảnh: Bảo Lâm

Trước đó, để đảm bảo thông suốt, không bị gián đoạn, Trung tâm Chuyển đổi số TP HCM đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ và đơn vị liên quan hoàn thành kết nối, tích hợp 100% dịch vụ công trực tuyến lên Cổng dịch vụ công quốc gia. Trung tâm cho biết sẽ cập nhật đầy đủ danh mục thủ tục hành chính, bố trí hạ tầng kỹ thuật, tài khoản người dùng, chữ ký số, cũng như bố trí đường dây nóng hoạt động 24/7 trong giai đoạn chuyển đổi để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.

Trung tâm cũng nâng cấp các hệ thống thông tin quản lý văn bản, hệ thống thư điện tử, họp trực tuyến, báo cáo số và trung tâm dữ liệu nhằm bảo đảm điều hành thông suốt ở cấp tỉnh và cấp xã. Trong trường hợp vướng mắc, người dân, doanh nghiệp có thể liên hệ tổng đài hoặc qua website Cổng dịch vụ công quốc gia để được hỗ trợ.

Trước đó, ngày 24/6, văn phòng UBND tỉnh Bình Định cũng thông báo đóng giao diện Cổng Dịch vụ công của tỉnh từ 25/6. Bình Định sẽ sáp nhập với Gia Lai, lấy tên là tỉnh Gia Lai.

Văn phòng UBND tinh Bình Định và Văn phòng UBND tỉnh Gia Lai đã hoàn thành xây dựng, tích hợp, đồng bộ dữ liệu giữa Hệ thống thông tin một cửa điện tử tỉnh Gia Lai (mới) với Cổng dịch vụ công quốc gia. Người dân, doanh nghiệp của tỉnh sẽ làm thủ tục hồ sơ hành chính qua “một cửa số” này.

Bảo Lâm

Nhà máy đầu tiên trên thế giới sản xuất lithium từ nước mỏ dầu

Cơ sở đầu tiên trên thế giới chiết xuất, cô đặc và biến đổi (EC²) lithium từ nước sản xuất ở mỏ dầu sẽ hoạt động thương mại vào đầu năm 2026.

Nhà máy sản xuất lithium thương mại của alkaLi. Ảnh: Gradiant

Nhà máy sản xuất lithium thương mại của alkaLi. Ảnh: Gradiant

Interesting Engineering hôm 25/6 đưa tin công ty Mỹ alkaLi ra mắt nhà máy sản xuất lithium tích hợp hoàn chỉnh đầu tiên trên thế giới, chiết xuất kim loại này từ nước sản xuất ở mỏ dầu. Đặt tại thành hệ đá phiến sét Marcellus ở Pennsylvania, cơ sở này do công ty Gradiant có trụ sở tại Boston phát triển thông qua công ty con alkaLi, sẽ đáp ứng 1/2 nhu cầu lithium của Mỹ. Đây sẽ là nhà máy đầu tiên trên thế giới thực hiện quy trình chiết xuất, cô đặc và biến đổi (EC²) lithium từ nước ở mỏ dầu.

Nhà máy mới ra đời sau khi alkaLi giới thiệu nền tảng EC² năm ngoái, đảm bảo khả năng thu thập ít nhất 95% lithium nhằm giúp các nhà sản xuất cung cấp lithium cacbonat đạt tiêu chuẩn pin theo cách hiệu quả và bền vững hơn. AlkaLi sở hữu và vận hành cơ sở cùng với quyền sử dụng đất, thiết bị và tài nguyên, cho biết mô hình tích hợp theo chiều dọc đảm bảo nguồn cung lithium lâu dài. Theo Anurag Bajpayee, giám đốc điều hành của Gradiant, đây là cơ sở đang hoạt động, chứng minh sản xuất lithium sạch trong nước khả thi và có thể mở rộng quy mô.

Quy trình EC² được thiết kế để thu thập nhiều lithium hơn với ít nước, năng lượng và chất thải hơn, đảm bảo tính kinh tế và bền vững. Các thử nghiệm ban đầu chứng minh khả năng thu thập lithium đạt 97% và độ tinh khiết đạt 99,5%, vượt xa tiêu chuẩn trong ngành công nghiệp. Nhà máy sẽ đi vào hoạt động thương mại đầy đủ đầu năm 2026.

Khác với khai thác nước muối hoặc đá cứng thông thường, phương pháp của alkaLi sử dụng nước sản xuất từ hoạt động dầu khí, khai thác nguồn tài nguyên phần lớn bị bỏ qua và chưa được sử dụng trong chuỗi cung ứng lithium. Nó tích hợp chiết xuất lithium trực tiếp (DLE), cô đặc và biến đổi, tạo thành hệ thống trơn tru. Nó cũng mang lại chi phí vốn và vận hành thấp hơn 50%, triển khai nhanh hơn thông qua module và tối ưu hóa bằng AI để kiểm soát thời gian thực và bảo dưỡng.

Theo alkaLi, nhà máy đi vào hoạt động ở thời điểm quan trọng. Với nhu cầu lithium dự kiến tăng mạnh do sự phát triển của xe điện và lưu trữ năng lượng, Mỹ đang đối mặt với áp lực nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng trong nước.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

Tàu SpaceX chở 4 phi hành gia tư nhân lên trạm ISS

‘Mở rộng định nghĩa, tạo ra thách thức để phát triển một ngành’

Theo Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, khi phát triển một ngành cần mở rộng định nghĩa giúp tạo không gian, thách thức, từ đó xuất hiện nhân tài, nhà khoa học để thúc đẩy ngành.

Trong chuyến thăm và làm việc tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam ngày 20/6/2025, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ những nhận định về hướng phát triển cho ngành nông nghiệp trong nước, cho Học viện, và việc phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong lĩnh vực.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Giang Huy

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Giang Huy

Nông nghiệp Việt Nam là ông bà, là bố mẹ mình, là lịch sử Việt Nam, là văn hóa Việt Nam, là nơi sinh ra mình. Ai trong chúng ta cũng đều từ quê mà ra. Không nhớ đến cội nguồn ấy sẽ không biết cách phát triển nông nghiệp Việt Nam. Một dân tộc, một đất nước muốn đi xa phải biết giữ nguồn cội của mình. Học viện Nông nghiệp Việt Nam muốn đi xa phải đi tìm cội nguồn nông nghiệp Việt Nam.

Nông nghiệp Việt Nam đi đầu về đổi mới, đó là Khoán 10. Tạo ra thành công của đổi mới. Giúp Việt Nam thoát nghèo, thành nước thu nhập trung bình. Tạo cảm hứng, niềm tin để đi tiếp công cuộc đổi mới. Đổi mới khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST), chuyển đổi số (CĐS) là lấy cảm hứng từ Khoán 10. Bởi vậy mà nói là Khoán 10 về KHCN. Tinh thần của khoán là quản lý mục tiêu thay vì quản lý quá trình, nhường chủ động cho người làm và họ được hưởng một phần kết quả tạo ra.

Nếu nông nghiệp chỉ là cây lúa, nông nghiệp sẽ dừng lại. Nhưng nếu nông nghiệp là chế biến, nông nghiệp trở thành công nghiệp. Nếu nông nghiệp còn là thuốc chữa bệnh, nông nghiệp đã đi sang một không gian khác. Nếu nông nghiệp là tăng cường sức khỏe con người, không gian của nông nghiệp gần như vô hạn. Nếu nông nghiệp là du lịch, là phong cách sống, nông nghiệp sẽ có một đời sống khác. Nếu nông nghiệp là nghiên cứu về sự sống, không chỉ sự sống của con người mà còn là sự sống của cây cỏ, nông nghiệp là bao trùm. Phát triển một ngành đầu tiên là mở rộng định nghĩa của nó. Mở rộng định nghĩa là mở rộng không gian, mở rộng không gian là tạo ra thách thức mới. Mà thách thức mới là cốt lõi đầu tiên để xuất hiện người tài, xuất hiện nhà khoa học.

Việt Nam muốn giàu có lên phải dựa vào KHCN, ĐMST, CĐS. Muốn vậy, người làm KHCN, ĐMST, CĐS phải giàu có. Nhà khoa học phải hướng tới làm giàu cho đất nước và qua đó mình giàu lên. Nhà khoa học không giàu có bởi các chính sách ưu đãi học hàm, học vị mà giàu có bởi được hưởng kết quả do họ tạo ra cho kinh tế – xã hội. Nếu nhà khoa học của Học viện chỉ dựa vào tiền công nghiên cứu thì không bao giờ giàu có lên được. Phải thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đây mới là nguồn tiền chính để nhà khoa học giàu lên.

Khi nào nguồn thu nghiên cứu của Học viện từ đặt hàng của doanh nghiệp, của nhà nước, từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu chiếm tới 60-70% tổng nguồn thu của Học viện (thu từ học phí chỉ còn chiếm 30%), khi đó Học viện mới thực sự là đại học nghiên cứu, thực sự là đứng trên mặt đất. Và chỉ khi nào các doanh nghiệp sử dụng kết quả nghiên cứu của Học viện để tạo ra sản phẩm, bán được doanh thu gấp 5-10 lần chi phí nghiên cứu, khi đó Học viện mới thực sự tạo ra tác động đến tăng trưởng kinh tế, chi phí nghiên cứu mới đạt hiệu quả.

Nhà nước sẽ căn cứ vào tác động tới phát triển kinh tế – xã hội của Học viện để cấp tiếp kinh phí nghiên cứu. Bộ KH&CN sẽ theo dõi toàn bộ vòng đời của một dự án nghiên cứu, từ khi bắt đầu nghiên cứu đến khi tạo ra tác động kinh tế. Chính bản thân Học viện cũng phải làm điều này để biết mình có tạo ra giá trị cho kinh tế – xã hội không.

Nhà nước có chủ trương xây dựng các đại học, nhất là các đại học lớn, thành các trung tâm nghiên cứu KHCN và ĐMST. Nhà nước tập trung xây dựng các đại học nghiên cứu hàng đầu, sánh vai khu vực và thế giới. Học viện Nông nghiệp phải là trung tâm KHCN và ĐMST trọng điểm quốc gia về nông nghiệp.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã 70 năm, là một chặng đường dài, có nhiều đóng góp lớn cho đất nước. Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam cần tăng trưởng nhanh, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển chất lượng, làm chủ các công nghệ chiến lược, trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Học viện nên có một chiến lược phát triển mới phù hợp với xu thế thời đại và các định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước. Đây sẽ là một trang mới của Học viện.

Cách mà Bộ KH&CN đổi mới quản lý là thay vì ngồi đợi các tổ chức KHCN gửi các đề xuất nhiệm vụ thì chủ động đi tới các tổ chức KHCN, tìm hiểu, lắng nghe, định hướng và đặt hàng các nhiệm vụ quốc gia, nhất là các nhiệm vụ làm chủ công nghệ chiến lược. Trước đây, để có được một nhiệm vụ nghiên cứu phải đi qua 3-5 đơn vị trong Bộ, nay chỉ còn một đầu mối là Quỹ KHCN Nafosted.

Tôi xin nói về các đổi mới của KHCN, ĐMST, CĐS.

Về Khoa học công nghệ

Khoa học công nghệ gồm khoa học (KH) và công nghệ (CN). KH là lấy được tri thức của Trời, tìm ra cái đã có sẵn trong Trời, không phải sáng tạo ra. CN là sáng tạo ra công cụ dựa trên tri thức của Trời, là do con người sáng tạo ra, không phải cái đã có sẵn ở Trời. Vậy, KH và CN khác nhau, cần cách tiếp cận, cách làm khác nhau. KH là tìm ra cái đã có sẵn trong Trời Đất, là bí mật của Trời Đất. CN là sáng tạo ra cái mới chưa có trong Trời Đất. Vì thế, phát triển CN là không gian của con người, sự sáng tạo ở đây là vô hạn. Học viện Nông nghiệp muốn bền vững phải đi cả hai chân: KH và CN.

Về bối cảnh thế giới: KHCN phát triển nhanh chưa từng có. Nhiều CN đột phá, ví dụ công nghệ gene chính xác, thay đổi cuộc chơi, phá hủy các hệ thống, tư duy cũ, thay đổi cách phát triển, cách cạnh tranh. Cạnh tranh công nghệ trở thành mặt trận cạnh tranh chính, sẽ làm thay đổi trật tự toàn cầu. Không tự cường CN thì sẽ phụ thuộc và thu lợi rất ít. KHCN góp phần tạo ra độc lập, tự chủ cho một quốc gia. Việt Nam là một nước độc lập, tự chủ về nông nghiệp thì phải độc lập, tự chủ về KHCN nông nghiệp. Học viện có nhận mình là hạt nhân của công cuộc này không? Và nếu có phải làm gì, khi mà các giống chất lượng cao, đặc chủng giống thủy sản, bò sữa, bò thịt vẫn phụ thuộc?

KHCN hưng thịnh, quốc gia mới hưng thịnh. KHCN mạnh, quốc gia mới mạnh. KHCN không phải vì KHCN mà phải vì sự hưng thịnh quốc gia, đóng góp cho nhân loại. Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc KHCN. Một quốc gia muốn trở thành nước phát triển thì phải là một quốc gia có KHCN phát triển. Nông nghiệp Việt Nam muốn phát triển bền vững, muốn thành cường quốc về nông nghiệp, KHCN nông nghiệp phải thuộc nhóm cường quốc. Và Học viện Nông nghiệp phải là hạt nhân của quá trình này, thuộc nhóm đầu toàn cầu về KHCN nông nghiệp.

Hiện đại hóa Việt Nam phải dựa vào hiện đại hóa KHCN làm nền tảng. Phát triển chất lượng cao phải dựa vào KHCN. Phát triển hai con số phải dựa vào KHCN. Bởi vậy, KHCN là cái nền quốc gia.

Về con đường phát triển KHCN

Con đường phát triển KHCN Việt Nam:

1- KHCN hướng vào phát triển kinh tế – xã hội, giải các bài toán lớn quốc gia;

2- CĐS toàn diện để tạo đất mới cho KHCN, ĐMST;

3- ĐMST toàn dân để phát triển KHCN;

4- KHCN tập trung vào làm chủ các công nghệ chiến lược;

5- Gắn KHCN với công nghiệp, với đổi mới công nghiệp, hỗ trợ phát triển năng lực sản xuất;

6- Nhân tài là cốt lõi;

7- Đổi mới hệ thống quản trị KHCN.

Thể chế KHCN phải liên tục được cải cách để khơi dậy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của nhà khoa học, kỹ sư, hướng tới làm chủ công nghệ, tự lực, tự cường trong KHCN. Tái cấu trúc hệ thống KHCN, tái cấu trúc các cơ cấu chi, nâng cao năng lực đổi mới của các chủ thể, cá nhân hoạt động KHCN. Loại bỏ các rào cản tư duy, rào cản cơ chế đối với KHCN. Trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các tổ chức và cá nhân nghiên cứu KHCN. Xây dựng thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh về KHCN. Phân bổ đủ nguồn lực quốc gia để KHCN thực sự trở thành động lực phát triển (2-3% ngân sách nhà nước cho KHCN, ĐMST). Vai trò quyết định của thị trường trong phân bổ nguồn lực cho KHCN, đồng thời tận dụng vai trò của nhà nước để mồi, khơi dậy sự tích cực ở các khâu nghiên cứu, sản xuất và đào tạo. Luật KH&CN sửa đổi thể hiện các định hướng này.

1- KHCN hướng đến kết quả cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tăng NSLĐ, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

2- KHCN hướng tới giải quyết các bài toán lớn của quốc gia: Tăng trưởng hai con số, tinh gọn bộ máy, tăng trưởng chất lượng cao, giải quyết ô nhiễm môi trường, tăng cường tiềm lực bảo vệ tổ quốc, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

3- KHCN hướng tới thúc đẩy ĐMST và đặt trong ngữ cảnh CĐS. Lấy CĐS làm môi trường phát triển KHCN. AI phải trở thành công cụ mới để nghiên cứu. Bộ KH&CN có thể hỗ trợ cho Học viện một số tài khoản dùng AI để phục vụ nghiên cứu, như Elicit, 500 USD/năm là tài khoản mức cao.

4- Kiên trì con đường ĐMST. Coi ĐMST và CĐS là đặc điểm lớn nhất của phát triển KHCN giai đoạn này. ĐMST và CĐS dễ làm hơn KHCN, nhưng lại mang tính quyết định trong sự phát triển của Việt Nam. ĐMST và CĐS cũng là bước trung gian để tiến tới làm chủ KHCN.

Luật Khoa học và Công nghệ được sửa đổi thành Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, đặt ĐMST ngang với KHCN để nhấn mạnh khía cạnh ứng dụng của KHCN. Cường quốc KHCN phải thông qua cường quốc về ĐMST. Các tổ chức nghiên cứu KHCN phải gắn với các tổ chức ĐMST.

KHCN là tìm ra hạt giống, nhưng gieo trồng ở mảnh đất nào, chăm sóc cho đến khi thu hoạch công việc của ĐMST. KHCN mà bị đứt gãy, không nối được với ĐMST thì sẽ thất bại. Các nghiên cứu của Học viện phải hướng tới ứng dụng, hướng tới ĐMST nhiều hơn. Học viện phải trở thành trung tâm ĐMST, hội đủ các nhà, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, đại học, tư vấn môi giới công nghệ, nhà đầu tư, ngân hàng, các quỹ KHCN, quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, kết nối mạng lưới ĐMST toàn cầu. Luật KH&CN mới nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp môi giới công nghệ, vì hiểu rằng các nhà khoa học thường ngại làm kinh doanh, và cho phép doanh nghiệp môi giới được hưởng tới 20% kết quả thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đây là mô hình Israel mà chúng ta học hỏi. Bộ KH&CN sẽ hỗ trợ Học viện xây dựng trung tâm ĐMST ngay trong năm 2025.

5- KHCN hướng tới làm chủ các công nghệ chiến lược của Việt Nam, tiến tới tự lực, tự chủ và tự cường về KHCN. CN chiến lược phải dẫn đến các sản phẩm chiến lược và các ngành công nghiệp chiến lược. Vì chỉ khi trở thành ngành công nghiệp, tác động vào nền kinh tế mới đủ lớn. Bởi vậy, KHCN phải hướng tới các sản phẩm chiến lược, các ngành công nghiệp chiến lược. Cách mà chúng ta làm chủ công nghệ lõi là đi từ làm chủ sản phẩm, làm chủ thiết kế sản phẩm, tích hợp thành sản phẩm thương mại. Đây là giai đoạn trung gian để tiến tới làm chủ công nghệ.

Chính phủ đã ban hành danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược và các sản phẩm chiến lược. Công nghệ y sinh, sản phẩm chiến lược nông nghiệp đều có mặt trong danh mục này. Bộ KH&CN đang đi tìm các tổ chức KHCN uy tín để đặt hàng, giao nhiệm vụ. Sau buổi làm việc, các cơ quan liên quan của Bộ KH&CN sẽ phải làm rõ với Học viện về các nhiệm vụ Học viện sẽ nhận trong năm 2025, công nghệ chiến lược gì, sản phẩm chiến lược gì, ngành công nghiệp nào.

6- KHCN đóng góp 1% vào tăng trưởng GDP của đất nước. Chuyển từ tư duy nghiên cứu để có kết quả trung gian (bài báo, báo cáo) sang nghiên cứu để thay đổi thực tiễn. Thay đổi thực tiễn có thể là thay đổi một nhận thức, không nhất thiết là ứng dụng CN. Các nhiệm vụ KHCN phải gắn với nhu cầu cụ thể của ngành, địa phương, doanh nghiệp, có đầu ra áp dụng, có đối tác tiếp nhận. KHCN không chỉ đi từ trên Trời xuống dưới Đất mà chủ yếu là đi từ dưới Đất lên Trời. Lấy thực tiễn làm mảnh đất phát triển KHCN, từ nhu cầu của thực tiễn mà đặt ra bài toán cho KHCN. Đi từ chiến lược quốc gia ra sản phẩm chiến lược, từ sản phẩm chiến lược ra công nghệ chiến lược, rồi ra nghiên cứu cơ bản chiến lược. Học viện hãy đặt mục tiêu đóng góp bao nhiêu % vào tăng trưởng cho nông nghiệp Việt Nam.

7- Đo lường được kết quả cuối cùng của KHCN, đo lường được tác động của KHCN tới tăng trưởng kinh tế, tới năng lực cạnh tranh quốc gia, tới chất lượng cuộc sống người dân. Nếu đo được kết quả đầu ra thì không ngại khoán chi, không ngại chi đầu vào tăng lên. Học viện phải theo dõi, đo lường được các kết quả nghiên cứu của Học viện đi vào ứng dụng như thế nào; tạo ra doanh thu mới là bao nhiêu; tạo ra giá trị tăng thêm cho nông nghiệp, cho nền kinh tế là bao nhiêu; tạo ra xuất khẩu mới là bao nhiêu, thu nhập người nông dân sử dụng kết quả nghiên cứu của Học viện tăng bao nhiêu; đóng góp mấy % vào tăng trưởng ngành nông nghiệp, mấy % vào tăng trưởng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp?. Những số liệu này sẽ là cơ sở quan trọng để Bộ KH&CN cấp tiếp kinh phí nghiên cứu cho Học viện.

8- Chuyển nghiên cứu cơ bản về đại học. Nơi đây có nhân lực tốt nhất và dồi dào nhất, đó là giáo sư, giáo viên, nghiên cứu sinh, sinh viên. Lực lượng nghiên cứu phát triển ở các đại học cơ bản là mãi mãi trẻ. Nhà nước có chính sách, cơ chế để xây dựng các cơ sở giáo dục đại học trở thành các trung tâm KHCN và ĐMST. Học viện vừa đại học vừa nghiên cứu. Bởi vậy, Học viện nên nhận nhiều hơn các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, vì đây vẫn là cái gốc của KHCN. Nếu tỷ lệ chi nghiên cứu khoa học/phát triển công nghệ chung của cả nước là 10/90 thì của Học viện Nông nghiệp nên là 20/80 hoặc 30/70.

9- Nghiên cứu cơ bản cũng nên hướng tới địa chỉ ứng dụng. Thiết lập cơ chế đánh giá nhiệm vụ khoa học theo 3 nhóm: Phục vụ chính sách công; Ứng dụng doanh nghiệp; Nâng cao tri thức nền. Mỗi nhóm có tiêu chí khác nhau.

Bộ KH&CN sẽ ban hành các tiêu chí đánh giá này. Chú ý, bài báo là cần thiết để khẳng định trình độ học thuật, nhưng không nên là tiêu chí duy nhất để đánh giá nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khi ngân sách công đang cần hướng tới giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

Về tập trung, tránh dàn trải

Cơ cấu lại các chương trình KHCN. Bỏ hình thức, bỏ dàn trải, tập trung theo hướng ít mà trúng. Chúng ta đang tài trợ quá nhiều (trên 40 chương trình quốc gia) nhưng hiệu quả không rõ ràng. Phải tái cơ cấu lại chỉ còn dưới 10 chương trình. Bám sát các công nghệ chiến lược, các lĩnh vực mũi nhọn mà Việt Nam có nhu cần và năng lực, để cơ cấu lại. Tài trợ lớn hơn (không chỉ vài tỷ đồng, mà còn là vài chục tỷ đồng, vài trăm tỷ đồng và lớn hơn). Học viện cũng nên như vậy, nên tập trung vào các chương lớn.

Về nhà khoa học, nhà nghiên cứu

Nhà khoa học không chỉ là người có bài báo, có chức danh khoa học, có bằng cấp hay có giải thưởng mà phải là người có bằng sáng chế được ứng dụng trong thực tế tạo ra giá trị cao cho tăng trưởng kinh tế, hoặc nâng cao tri thức nền. Các tri thức mới, giải pháp mới được tìm ra (lý thuyết, mô hình, thuật toán, công nghệ, hoặc chính sách) phải có tác động thực tế thông qua việc kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào sản phẩm, công nghệ, chính sách hoặc giải pháp xã hội. Người nghiên cứu được khoán chi phí, được sở hữu kết quả nghiên cứu để mang đi thương mại hóa nghiên cứu, được mang kết quả nghiên cứu đi lập doanh nghiệp, đi liên doanh, liên kết, được hưởng lợi từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Kết quả thương mại hóa của Học viện ít nhất 30% phải chia cho nhóm nghiên cứu. Nhà KHCN thương mại hóa được kết quả nghiên cứu thì thu nhập đó được miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân. Đây là cơ chế làm giàu cho đất nước thì mình cũng được giàu lên theo.

Người tài về KHCN sẽ xuất hiện nếu có ba điều kiện: một là có việc khó, việc lớn, có thách thức, nếu làm được thì tạo ra giá trị lớn; hai là có điều kiện làm việc, có các phòng lab hiện đại, có ngân sách cho nghiên cứu; ba là người làm được hưởng một phần kết quả tạo ra. Việc vĩ đại sẽ tạo ra người vĩ đại.

Về chuyển đổi số

CĐS toàn diện hoạt động KHCN, công tác quản lý KHCN. Xây dựng nền tảng số quản lý toàn bộ vòng đời nhiệm vụ KHCN. Các cơ sở nghiên cứu phải dùng nền tảng này để quản lý đề tài nghiên cứu dùng ngân sách nhà nước. Bộ KH&CN xây dựng nền tảng này và Học viện có thể dùng chung. CĐS, chuyển đổi AI toàn diện Học viện, từ đào tạo tới nghiên cứu, nên là trọng tâm của Học viện. Cách làm thì nên chọn một doanh nghiệp công nghệ số làm đối tác chiến lược. Định hướng CĐS thế nào thì Bộ KH&CN sẽ hỗ trợ được.

Về hợp tác quốc tế

KHCN có tính toàn cầu và thời đại. Hợp tác để phát triển KHCN nước nhà và đóng góp vào KHCN thế giới. Hợp tác KHCN bao giờ cũng là hai bên cùng có lợi, dựa trên lợi thế các bên để hợp tác. Đa số các bài toán lớn của Việt Nam đều là bài toán có tính toàn cầu, giải được bài toán Việt Nam là giải được bài toán toàn cầu, đóng góp cho toàn cầu. Việt Nam không đi xin nữa, phải có cái Việt Nam mang ra, có cái Việt Nam mang về. KHCN là mạng lưới toàn cầu. Càng mạng lưới thì KHCN càng phát triển. Học viện phải xây dựng mạng lưới KHCN toàn quốc và toàn cầu. Có bài toán lớn, có điều kiện làm việc, có ngân sách thì có thể huy động được các nhà khoa học, tinh hoa toàn cầu giải bài toán Việt Nam. Thuê Tây làm cho ta.

Muốn đi một chặng đường dài về KHCN thì phải tầm nhìn xa, trông rộng, hoạch định toàn cục, nhưng có tập trung vào cốt lõi. Học viện Nông nghiệp phải hoạch định tầm nhìn này, nó như ngôi sao dẫn lối cho Học viện.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

‘Mở rộng định nghĩa, tạo ra thách thức để phát triển một ngành’

Quốc hội thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Sáng 27/6, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo với 73 điều, có hiệu lực từ ngày 1/10/2025.

Luật xác lập các chính sách lớn nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trong cả nước, trong đó tập trung vào phát triển hạ tầng, khuyến khích mạo hiểm, khoán chi linh hoạt và miễn trừ trách nhiệm khi chấp nhận rủi ro.

Đầu tư hạ tầng, phát triển các trung tâm nghiên cứu trình độ cao

Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; phát triển kết nối hạ tầng giữa viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp.

Luật cũng quy định việc đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục đại học trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo; từng bước hình thành các trung tâm nghiên cứu trình độ cao gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, bảo đảm phối hợp hiệu quả với mạng lưới viện nghiên cứu chuyên ngành.

Bên cạnh đó, luật yêu cầu tăng cường hỗ trợ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng; thúc đẩy chuyển giao công nghệ, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, làm chủ và sáng tạo công nghệ. Hoạt động khoa học và công nghệ sẽ được ưu tiên phát triển tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và các địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thông qua đầu tư hạ tầng, phát triển nhân lực và chuyển giao công nghệ.

Đại biểu Quốc hội tại hội trường Diên Hồng. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội

Đại biểu Quốc hội tại hội trường Diên Hồng. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội

Miễn trách nhiệm dân sự, hành chính, thậm chí hình sự khi rủi ro khách quan

Một trong những nội dung mới đáng chú ý của Luật là quy định rõ ràng về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Theo đó, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình, quy định và không có hành vi gian lận, vi phạm pháp luật hay sử dụng sai mục tiêu, phạm vi kinh phí thì được miễn trách nhiệm hành chính, dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước. Đồng thời, họ cũng không phải hoàn trả kinh phí nếu kết quả không đạt được mục tiêu đề ra, với điều kiện đã tuân thủ đúng quy định quản lý nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu, biện pháp phòng ngừa rủi ro.

Tương tự, người phê duyệt và quản lý nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước cũng được loại trừ trách nhiệm nếu không vi phạm pháp luật và đã làm đúng quy trình.

Đặc biệt, Luật quy định loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự với những rủi ro xảy ra trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Chính phủ sẽ quy định chi tiết điều này, bao gồm tiêu chí xác định rủi ro được chấp nhận và quy trình đánh giá việc tuân thủ quy trình, quy định pháp luật.

Khuyến khích nghiên cứu mạo hiểm, đầu tư vào công nghệ đột phá

Luật quy định rõ định hướng chiến lược: hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải gắn với phát triển kinh tế xã hội, tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, bao trùm và dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường. Doanh nghiệp được xác định là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo.

Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, xây dựng thể chế, thúc đẩy đầu tư, phát triển hạ tầng khoa học công nghệ hiện đại. Các lĩnh vực có tiềm năng tạo đột phá, công nghệ chiến lược sẽ được ưu tiên nguồn lực. Đặc biệt, Luật lần đầu tiên quy định chính sách khuyến khích nghiên cứu mạo hiểm thông qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, chính sách chia sẻ rủi ro, đầu tư mạo hiểm và các cơ chế tài chính đặc thù khác.

Cùng với đó, Nhà nước sẽ có chính sách ưu đãi, cơ chế đặc thù để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước; đồng thời phát triển, đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quốc gia.

Phòng sạch, Trung tâm Nano và Năng lượng, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi đào tạo và nghiên cứu về bán dẫn. Ảnh: Giang Huy

Phòng sạch, Trung tâm Nano và Năng lượng, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi đào tạo và nghiên cứu về bán dẫn. Ảnh: Giang Huy

Khoán chi linh hoạt trong hoạt động nghiên cứu khoa học

Luật cho phép nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được áp dụng cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc khoán chi từng phần theo nội dung nghiên cứu. Trong trường hợp khoán đến sản phẩm cuối cùng, tổ chức chủ trì được tự chủ sử dụng kinh phí, quyết định điều chỉnh giữa các khoản mục chi và quyết toán tổng số kinh phí thực hiện nhiệm vụ.

Trường hợp khoán chi từng phần, tổ chức chủ trì cũng được tự chủ sử dụng kinh phí, trừ một số khoản như mua sắm tài sản, thuê dịch vụ không có định mức hoặc công tác nước ngoài.

Ngoài ra, tổ chức chủ trì được phép sử dụng kinh phí để thuê chuyên gia trong nước và quốc tế theo thỏa thuận, chịu trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, lưu trữ chứng từ và giải trình khi cần thiết.

Sơn Hà

Quốc hội thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – Báo VnExpress

Camera giao thông khác camera thường thế nào?

Camera giao thông thường có kích thước lớn, hình hộp vuông hoặc chữ nhật, sử dụng hệ thống AI để nhận diện biển số, loại vi phạm.

Nhận biên bản phạt nguội vì xe đi quá tốc độ trên đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, đoạn cuối Phú Xuyên, anh Tiến Minh (Hà Nội) tỏ ra bất ngờ. “Tôi đi đường này gần 10 năm, trước đây cũng vài lần quá tốc độ nhưng không thấy bị phạt, nghĩ mấy camera ở đây chỉ là loại theo dõi thông thường. Hơn nữa, lúc đó đã hơn 23h, chủ quan nghĩ camera khó quan sát”, anh Minh nói.

Nơi xe anh Minh vi phạm là điểm giao giữa hai đoạn đường có tốc độ giới hạn 120 km/h và 100 km/h, một số tài xế thường không chú ý biển báo. Tại đây có gắn camera bắn tốc độ, loại có radar cao cấp, đèn flash trợ sáng, có thể giám sát dải tốc độ cao tối đa 300 km/h.

Camera giao thông lắp đặt trên một tuyến phố ở Hà Nội. Ảnh: Phương Sơn

Camera giao thông lắp đặt trên một tuyến phố ở Hà Nội. Ảnh: Phương Sơn

Theo ông Vũ Mạnh Giỏi, quản lý phát triển kinh doanh Dahua Việt Nam, camera an ninh thông thường và camera giao thông chuyên biệt có sự khác biệt đáng kể về cả kích thước bên ngoài lẫn hệ thống phần mềm điều khiển, nhận dạng. Loại để giám sát trật tự giao thông, phát hiện vi phạm thường lớn hơn nhiều, đặc biệt là các model được lắp đặt gần đây trên các cao tốc mới hiện đại.

Tuy nhiên, sự phân chia không tuyệt đối vì một số ít camera cỡ nhỏ vẫn có thể sử dụng để theo dõi giao thông nếu đáp ứng yêu cầu kỹ thuật hoặc tận dụng từ hệ thống cũ. Hệ thống giao thông thông minh bao gồm các camera thường được kết nối với hệ thống máy chủ xử lý, giúp chúng có khả năng nhận diện các vi phạm, phân tích các kịch bản giao thông.

Một số thương hiệu camera được dùng cho giao thông phổ biến tại Việt Nam như Dahua, Hikvision, Hanwha, iPro có một số điểm chung về kiểu dáng, cấu hình, phần mềm điều khiển nhằm đáp ứng tiêu chuẩn trong ngành.

Khác biệt về kiểu dáng, thông số phần cứng

Camera an ninh ngoài trời (bên trái) và camera giao thông có kích thước lớn, đèn flash trợ sáng và chống thời tiết khắc nghiệt hơn.

Camera an ninh (trái) so kích thước với camera giao thông (phải) với đèn flash trợ sáng và chống thời tiết khắc nghiệt tốt hơn.

Camera an ninh thường có thân trụ tròn, dáng nhỏ, lắp đặt ở các điểm cần quan sát cụ thể như dưới mái nhà, tường. Còn camera giao thông có thân hộp vuông hoặc chữ nhật lớn, có thể gấp 3-6 lần so với camera an ninh trong nhà. Chúng thường được đặt trên các cột, có tay vươn ra để bao quát các làn đường. Những loại lắp trên cao tốc thường có kích thước lớn hơn trong thành phố do yêu cầu về hệ thống quang học đáp ứng độ zoom lớn, phát hiện tình huống, vi phạm từ khoảng cách hàng km.

Đa số tích hợp sẵn đèn flash trợ sáng lớn hoặc hệ thống đèn flash độc lập ngay bên cạnh. Tất cả camera giao thông có tiêu chuẩn về độ bền, chống thời tiết khắc nghiệt trực tiếp cao hơn so với camera an ninh.

Camera bắn tốc độ loại có radar có thể phát hiện tốc độ tối đa 300 km/h (bên trái) và camera giao thông thông thường.

Camera giao thông cao cấp hỗ trợ bắn tốc độ bằng radar, có thể phát hiện tốc độ tối đa 300 km/h (trái) thường có hình khối hộp vuông, radar đặt giữa và camera giao thông thông thường (phải).

Camera giao thông cũng thường có thông số kỹ thuật cao hơn mặt bằng chung. Chúng phải đáp ứng tiêu chuẩn về độ phân giải hình ảnh sắc nét từ Full HD trở lên, lọc ánh sáng tốt, tốc độ khung hình cao để hạn chế xé hình, đủ để hệ thống phân tích và nhận diện biển số xe từ khoảng cách xa. Tất cả có đèn hồng ngoại công suất cao để chụp, theo dõi hình ảnh ban đêm ở khu vực rộng. Một số loại mới hiện nay có thể chụp được qua cửa kính xe vào bên trong để nắm bắt trạng thái tài xế như tình trạng đeo dây bảo hiểm, sử dụng điện thoại hoặc không tập trung.

Tuy nhiên, các camera giao thông được lắp đặt từ lâu, có thông số kỹ thuật kém thường gặp khó khăn trong việc nhận diện biển số với khung hình, điều kiện ánh sáng phức tạp. Độ nét và độ nhạy sáng không đủ cũng khiến chúng thường không hoạt động hiệu quả vào ban đêm.

Khác biệt về xử lý thông tin, nhận dạng tình huống

Hiện nay, camera giao thông đời mới tích hợp AI để nhận diện biển số, tự động phân tích hành vi vi phạm như không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, vượt đèn đỏ, đi chệch làn. Các nhà sản xuất cũng có thể tùy biến hệ thống nhận dạng vi phạm theo các kịch bản giao thông phù hợp với nơi được lắp đặt.

Dữ liệu từ một camera giao thông tự động phân tích biển số, tốc độ, màu xe, loại xe, thậm chí cả logo một số hãng xe.

Dữ liệu từ một camera giao thông tự động phân tích biển số, tốc độ, màu xe, loại xe, thậm chí logo một số hãng xe.

Tuy nhiên, camera cũ vẫn có thể tận dụng khi kết hợp cùng hệ thống máy chủ, AI ANPR nhờ phân tích, xử lý hình ảnh thứ cấp từ camera. Để tăng độ chính xác, camera tại các điểm giao cắt có thể được kết nối với hệ thống tín hiệu đèn nhằm đồng bộ dữ liệu giúp phát hiện chính xác xe vi phạm.

Với các hệ thống vẫn sử dụng loại camera cũ, độ phân giải không cao, có thể ảnh hưởng đến khả năng nhận dạng vi phạm. Ví dụ, các camera này sẽ khó quét được biển số, không nhận dạng được tốc độ khi trời tối.

Camera phạt nguội và camera bắn tốc độ

Đây là hai thuật ngữ phổ biến khi nói về camera giám sát giao thông. Thực tế, hầu hết camera giao thông lắp đặt mới hiện nay có khả năng phân tích, phát hiện nhiều tình huống vi phạm luật lệ giao thông. Người dùng có bị phạt nguội do đi sai hay không phụ thuộc vào việc sử dụng dữ liệu của cơ quan quản lý.

Các loại camera giao thông từ Hikvision, Dahua… có thể tự động nhận diện các loại vi phạm phổ biến trong thành phố gồm vượt đèn đỏ, đi sai làn, đi ngược chiều, không đội mũ bảo hiểm… Đây là một phần trong hệ thống giao thông thông minh được triển khai trong tương lai.

Dữ liệu từ một camera ghi lại tốc độ xe, loại xe, phát hiện không đội mũ bảo hiểm.

Dữ liệu từ một camera ghi lại tốc độ xe, loại xe, phát hiện không đội mũ bảo hiểm.

Trong khi đó, camera bắn tốc độ thường đòi hỏi thông số kỹ thuật cao hơn. Loại camera gắn trong thành phố thường nhận diện tốc độ tối đa dưới 80 km/h, trong khi những loại cũ không thể dùng để bắn tốc độ. Tại các đường cao tốc, thiết bị được sử dụng là loại cao cấp, có radar tích hợp, ITC, đèn LED trợ sáng để bắt được tốc độ tối đa khoảng 300 km/h.

Hoài Anh

Camera giao thông khác camera thường thế nào? – Báo VnExpress

Mua bán dữ liệu cá nhân trái phép có thể bị phạt tới 10 lần doanh thu

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân vừa được Quốc hội thông qua sáng 26/6 quy định mức phạt hành chính với hành vi mua, bán dữ liệu cá nhân có thể lên tới 10 lần khoản thu từ vi phạm.

Theo quy định tại Điều 8 của Luật, tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi. Trường hợp gây thiệt hại, người vi phạm còn phải bồi thường theo quy định pháp luật.

Cụ thể, hành vi mua, bán dữ liệu cá nhân trái phép bị xử phạt tối đa 10 lần khoản thu bất hợp pháp. Nếu không xác định được khoản thu, tổ chức vi phạm có thể bị phạt đến 3 tỷ đồng, cá nhân bị phạt đến 1,5 tỷ đồng. Với hành vi chuyển dữ liệu cá nhân xuyên biên giới trái phép, mức phạt là 5% doanh thu năm trước của tổ chức. Trường hợp không có doanh thu, mức phạt cũng có thể lên tới 3 tỷ đồng. Chính phủ sẽ ban hành hướng dẫn về cách tính khoản thu để áp dụng mức xử phạt này.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội lý giải rằng các vi phạm trong lĩnh vực dữ liệu cá nhân có thể gây hậu quả nghiêm trọng, vì vậy cần thiết phải áp dụng mức phạt cao nhằm đảm bảo tính răn đe, đặc biệt với các tập đoàn đa quốc gia hoặc doanh nghiệp công nghệ có doanh thu hàng nghìn tỷ đồng.

Đại biểu Quốc hội tại hội trường Diên Hồng. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội

Đại biểu Quốc hội tại hội trường Diên Hồng. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội

Cấm mua bán dữ liệu cá nhân

Luật cũng quy định cấm mua, bán dữ liệu cá nhân dưới mọi hình thức. Điều 7 của Luật nghiêm cấm hành vi sử dụng dữ liệu cá nhân của người khác để thực hiện hành vi trái pháp luật; cho người khác sử dụng dữ liệu cá nhân của mình; chiếm đoạt, cố ý làm lộ hoặc làm mất dữ liệu cá nhân; xử lý dữ liệu với mục đích chống lại Nhà nước, xâm phạm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, hoặc cản trở việc bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Theo Thường vụ Quốc hội, việc cấm triệt để hành vi mua bán dữ liệu cá nhân là cần thiết để ngăn chặn tình trạng rao bán thông tin cá nhân tràn lan trên mạng, hoặc việc nhân viên tổ chức lợi dụng dữ liệu để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Dữ liệu cá nhân gắn với quyền riêng tư, nhân thân và không thể coi là hàng hóa để trao đổi mua bán. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết quốc gia, như Mỹ, Thái Lan, Singapore hay Malaysia, không công nhận dữ liệu cá nhân là tài sản mà chỉ thừa nhận quyền kiểm soát của mỗi người với dữ liệu của chính mình.

Tại Việt Nam, tình trạng dữ liệu cá nhân bị thu thập và rao bán như hàng hóa đã diễn ra phổ biến trong khi hành lang pháp lý còn thiếu. Nhiều trường hợp chưa có cơ chế kiểm soát việc đồng ý sử dụng, mục đích xử lý, hoặc bảo vệ đầy đủ quyền của người dùng. Vì vậy, Luật mới khẳng định rõ dữ liệu cá nhân không phải là tài sản và việc mua bán là hành vi bị cấm.

Thiết kế mẫu căn cước công dân gắn chip. Ảnh: Bộ Công an

Thiết kế mẫu căn cước công dân gắn chip. Ảnh: Bộ Công an

Mạng xã hội không được yêu cầu người dùng cung cấp ảnh giấy tờ tùy thân

Luật quy định nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với các nền tảng mạng xã hội, dịch vụ truyền thông trực tuyến tại điều 29. Các nền tảng không được thu thập trái phép dữ liệu cá nhân và ngoài phạm vi theo thỏa thuận với khách hàng; không được yêu cầu cung cấp hình ảnh, video chứa nội dung đầy đủ hoặc một phần giấy tờ tùy thân làm yếu tố xác thực tài khoản; không nghe lén, nghe trộm hoặc ghi âm cuộc gọi và đọc tin nhắn văn bản khi không có sự đồng ý của người dùng.

Đồng thời, các nền tảng phải công khai chính sách bảo mật, minh bạch trong việc thu thập và sử dụng dữ liệu, cung cấp cơ chế để người dùng truy cập, chỉnh sửa, xóa thông tin và thiết lập quyền riêng tư. Trong trường hợp chuyển dữ liệu cá nhân công dân Việt Nam ra nước ngoài, các nền tảng phải có biện pháp bảo vệ phù hợp.

Ngân hàng không được thu thập thông tin tín dụng để chấm điểm

Luật cũng đặt ra các nguyên tắc bảo vệ dữ liệu trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và thông tin tín dụng.

Theo đó, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động thông tin tín dụng không sử dụng thông tin tín dụng của chủ thể dữ liệu cá nhân để chấm điểm, xếp hạng tín dụng, đánh giá thông tin tín dụng, đánh giá mức độ tín nhiệm về tín dụng của chủ thể dữ liệu cá nhân khi chưa có sự đồng ý.

Tổ chức tín dụng chỉ thu thập những dữ liệu cá nhân cần thiết phục vụ cho hoạt động thông tin tín dụng từ các nguồn phù hợp với quy định và phải thông báo cho chủ thể dữ liệu cá nhân trong trường hợp lộ, mất thông tin về tài khoản ngân hàng, tài chính, tín dụng, thông tin tín dụng.

Tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động thông tin tín dụng áp dụng các biện pháp phòng, chống truy cập, sử dụng, tiết lộ, chỉnh sửa trái phép dữ liệu cá nhân của khách hàng; có giải pháp khôi phục dữ liệu cá nhân của khách hàng trong trường hợp bị mất; bảo mật trong quá trình thu thập, cung cấp, xử lý dữ liệu cá nhân của khách hàng.

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.

Sơn Hà

Mua bán dữ liệu cá nhân trái phép có thể bị phạt tới 10 lần doanh thu – Báo VnExpress

Sắp có phần mềm truy xuất nguồn gốc hàng hóa, phát hiện hàng giả

Bộ Công an đang cùng Bộ Công Thương, VNPT xây dựng hệ thống về xuất xứ hàng hóa, dự kiến vận hành thử nghiệm cuối năm nay, theo Thứ trưởng Công an Nguyễn Văn Long.

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 6 tháng và tổng kết đợt cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả ngày 23/6, Thứ trưởng Công an Nguyễn Văn Long cho biết một trong những nhiệm vụ Thủ tướng giao cho Bộ này trong khuôn khổ Đề án 06 là phối hợp xây dựng nền tảng dữ liệu về xuất xứ hàng hóa.

“Hiện Bộ Công an cùng Bộ Công Thương, VNPT xây dựng hệ thống này, dự kiến đưa vào vận hành thử nghiệm cuối năm nay”, ông Long nói.

Theo ông, trước mắt, hệ thống áp dụng với một số nhóm hàng hóa. Sau khi đi vào hoạt động, nền tảng sẽ giúp người dân truy xuất nguồn gốc sản phẩm, góp phần ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhập lậu, đồng thời cung cấp dữ liệu phục vụ hoạch định chính sách.

Thứ trưởng Công an Nguyễn Văn Long phát biểu tại hội nghị, ngày 23/6. Ảnh: VGP

Thứ trưởng Công an Nguyễn Văn Long phát biểu tại hội nghị, ngày 23/6. Ảnh: VGP

Tháng cao điểm kiểm tra hàng hóa trên cả nước được phát động từ 15/5 đến 15/6 theo chỉ đạo của Thủ tướng, do Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) chủ trì. Trong thời gian này, lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra 3.891 vụ, xử lý hơn 3.100 vụ vi phạm. Trong đó, số tiền xử phạt hành chính vượt 32 tỷ đồng, hàng hóa vi phạm bị tịch thu trị giá gần 31 tỷ đồng, và tổng số tiền nộp ngân sách gần 36 tỷ đồng. 26 vụ có dấu hiệu hình sự đã được chuyển cho cơ quan điều tra, tăng 50% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên, công cuộc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang diễn ra ngày càng quyết liệt. “Từ đầu năm, bình quân mỗi ngày các lực lượng xử lý vài trăm vụ, như vậy số lượng không phải là nhỏ. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm các quy định ngày càng lớn”, ông Diên cho biết.

Lý giải nguyên nhân buôn lậu, gian lận thương mại gia tăng, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết hoạt động này mang lại lợi ích rất lớn cho người kinh doanh, cùng với sự xuất hiện của thương mại điện tử là môi trường rất tốt để hoạt động.

Ngoài ra, theo ông Diên, lực lượng quản lý thị trường được chuyển giao cho các địa phương từ tháng 2, song nhiều địa phương chỉ đạo lực lượng này chưa kịp thời. Luật pháp và cơ chế, chính sách cũng còn nhiều lỗ hổng, cần tiếp tục rà soát để hoàn thiện. Chưa kể, một số cơ quan chức năng chưa làm tốt nhiệm vụ, thậm chí có những cán bộ tiếp tay, hợp thức hóa cho những sai phạm này.

Thứ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại hội nghị, ngày 23/6. Ảnh: VGPBộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại hội nghị, ngày 23/6. Ảnh: VGP

Nửa đầu năm, các lực lượng chức năng của Bộ Quốc phòng cũng phối hợp với các lực lượng bắt giữ 1.412 vụ, trong đó liên quan đến ma túy 293 vụ, vận chuyển hàng trái phép 639 vụ và hành vi khác 210 vụ.

Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Hồng Thái cho rằng hàng giả, kém chất lượng, vi phạm sở hữu trí tuệ không thuần túy là do nhập lậu, vận chuyển từ nước ngoài. Thực tế, rất nhiều trong số đó được sản xuất từ trong nước, đặc biệt là các loại thực phẩm, thực phẩm chức năng với “hình thức rất trắng trợn, ảnh hưởng đặc biệt đến sức khỏe người dân”.

Tương tự, Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên cho biết nửa đầu năm, toàn ngành y tế đã kiểm tra trên 170.000 cơ sở về an toàn thực phẩm, phát hiện trên 9.000 cơ sở vi phạm (chiếm 5,2%), xử phạt số tiền trên 20 tỷ đồng. Bộ đã chỉ đạo lấy trên 16.000 mẫu thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm để kiểm tra. Đặc biệt, đã tiến hành phát hiện 2 cơ sở bán thuốc ở Hà Nội chưa rõ xuất xứ, bảo đảm chất lượng.

Theo báo cáo của Bộ Công an, toàn lực lượng đã khởi tố 124 vụ với 297 bị can. Riêng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố 7 vụ, hơn 100 bị can, thu giữ số hàng giả trị giá hơn 12.000 tỷ đồng. Công an địa phương xử lý hành chính gần 1.000 vụ, thu phạt trên 15 tỷ đồng.

Nổi bật là hai hệ sinh thái doanh nghiệp vi phạm lớn là Z Holding và Big Holding. Z Holding bị xác định đã bán gần 7.000 tỷ đồng hàng giả, Big Holding khoảng 4.000 tỷ đồng. Để qua mặt cơ quan chức năng, các đối tượng đã làm giả phiếu kết quả kiểm nghiệm hoặc thông đồng với các đơn vị kiểm nghiệm cung cấp các kết quả khống, câu kết móc nối với các cơ quan nhà nước để tạo điều kiện cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn GMP cho các nhà máy sản xuất.

Thứ trưởng Công an Nguyễn Văn Long kiến nghị các bộ ngành, cơ quan liên quan nâng năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực được giao, sớm rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng phù hợp thực tiễn, tạo thuận lợi nhưng không buông lỏng quản lý.

Cùng quan điểm, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Hồng Thái cho rằng việc thường xuyên rà soát, đề xuất sửa đổi văn bản pháp luật là cần thiết, bảo đảm thông thoáng cho sản xuất – kinh doanh, nhưng vẫn kiểm soát chất lượng hàng hóa, bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Đại diện Bộ Y tế khẳng định sẽ phối hợp chặt với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Công Thương để tăng quản lý hoạt động quảng cáo trên môi trường điện tử.

“Khi phát hiện vi phạm, cơ quan chức năng cần xử lý đơn vị quảng cáo và cả tổ chức, cá nhân thuê quảng cáo sai lệch”, đại diện Bộ Y tế đề xuất. Ngoài ra, cơ quan này cũng cho biết họ đã có văn bản đề nghị văn nghệ sĩ, người nổi tiếng, cán bộ nhà nước và giới khoa học không tham gia quảng bá các sản phẩm vi phạm.

Bộ cũng kiến nghị xem xét nâng mức xử phạt hành chính, tương tự Nghị định 168 trong lĩnh vực an toàn giao thông, nhằm tăng sức răn đe đối với hành vi vi phạm.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chiều 23/6. Ảnh: Nhật Bắc

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chiều 23/6. Ảnh: Nhật Bắc

Kết luận hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, biểu dương kết quả của các bộ ngành, địa phương thời gian qua trong việc đấu tranh với buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Một số địa phương cùng với Bộ Công an, cơ quan chức năng phát hiện cơ sở quy mô lớn về hàng giả, hàng nhái, hàng lậu.

Song Thủ tướng thừa nhận vẫn còn hạn chế liên quan thể chế, cơ sở vật chất, đầu tư, tài chính, phương tiện, tổ chức thực hiện. Việc chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương tại một số nơi còn bị xem nhẹ, buông lỏng. Một số cán bộ thiếu trách nhiệm, có người không còn ý chí chiến đấu hoặc bị mua chuộc, trong khi sức mạnh của người dân và doanh nghiệp chưa được huy động.

Đây là lần thứ hai trong một tháng qua, người đứng đầu Chính phủ đề cập đến nội dung này. Trước đó, chủ trì họp Thường trực Chính phủ ngày 19/5, Thủ tướng từng đặt nghi vấn tại sao tình trạng buôn lậu, làm hàng trăm tấn hàng giả mà cơ quan chức năng không biết, trong khi việc này cần kho bãi, vận chuyển, mua bán.

“Chỉ có hai khả năng: hoặc không còn ý chí chiến đấu, hoặc bị mua chuộc, có tiêu cực. Cả hai điều này đều phải xử lý nghiêm”, ông nói.

Ông chỉ đạo xây dựng kế hoạch hành động của Chính phủ trong nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, tổ chức thường xuyên, liên tục đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

“Phải kiên quyết tuyên chiến với hàng giả, đấu tranh thường xuyên với tinh thần mỗi ngày đều là cao điểm, đặc biệt là quét sạch thuốc giả, thực phẩm giả”, Thủ tướng nói. Ông cũng mong muốn mỗi người dân là một người tiêu dùng thông minh và là một chiến sĩ trong đấu tranh với buôn lậu, hàng giả.

Lãnh đạo Chính phủ nhấn mạnh việc chống buôn lậu, hàng giả là “không có vùng cấm”. Ông yêu cầu huy động cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp vào cuộc để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp làm ăn chân chính.

Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, Thủ tướng yêu cầu các bộ ngành, địa phương tập trung rà soát quy định, thường xuyên kiểm tra, tăng năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Trong đó, Bộ Y tế chủ trì, chịu trách nhiệm chính trong quản lý an toàn thực phẩm, dược phẩm do liên quan trực tiếp tới tính mạng, sức khỏe người dân.

Ông lưu ý đội ngũ cán bộ phải chuyên nghiệp, trách nhiệm cao, có đạo đức, nhân văn trong thực hành công vụ. Nhà điều hành sẽ xây dựng cơ chế chính sách để huy động người dân, doanh nghiệp tham gia vào đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả. Ngoài ra, người đứng đầu các tỉnh thành phải tiếp tục quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo việc này, coi đây là “một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng”. Bộ Nội vụ được giao làm tốt công tác thi đua, khen thưởng.

“Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ, hiệu quả hơn nữa vì người tiêu dùng, người sản xuất và nền kinh tế phát triển lành mạnh, nhanh, bền vững trong giai đoạn tới”, ông nói.

Phương Dung – Viết Tuân

Sắp có phần mềm truy xuất nguồn gốc hàng hóa, phát hiện hàng giả – Báo VnExpress Kinh doanh