Khai mạc Triển lãm 70 năm Thành tựu Kinh tế – Xã hội Việt Nam

 
Tối 28/8/2015, Triển lãm 70 năm Thành tựu Kinh tế – Xã hội Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2/9 đã chính thức khai mạc.
 
 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước khai mạc Triển lãm 70 năm Thành tựu kinh tế – xã hội
 
Tới dự lễ Khai mạc có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các đồng chí: Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị; Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải; Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam; Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và các đồng chí lãnh đạo các Bộ, ban ngành Trung ương và địa phương…
 
Phát biểu tại lễ Khai mạc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh triển lãm nhằm giới thiệu những kết quả phấn đấu của nhân dân Việt Nam với sự hợp tác, giúp đỡ quý báu của bè bạn khắp năm châu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước trong 70 năm qua.
 
Phó Thủ tướng đã điểm lại những trang lịch sử hào hùng kể từ tháng Tám năm 1945 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, nhân dân Việt Nam đã đứng lên giành chính quyền, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước cộng hoà, dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á.
Bằng sức mạnh đại đoàn kết, lòng quả cảm và tinh thần sáng tạo của nhân dân Việt Nam cùng với sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế, Việt Nam đã vượt qua muôn vàn hi sinh, gian khổ, giành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước. 70 năm xây dựng và phát triển, Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong xóa đói giảm nghèo, trong thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Nhiều chỉ số liên quan tới con người, tới an sinh xã hội của Việt Nam cao hơn hẳn so với các nước có cùng trình độ phát triển.
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Lễ Khai mạc 
 
Bộ KH&CN tham gia Triển lãm với những thành tựu KH&CN tiêu biểu trong 70 năm qua của 5 lĩnh vực: Khoa học xã hội và nhân văn (Văn hóa, Lịch sử, Văn học và Ngôn ngữ), Khoa học tự nhiên (Điều tra cơ bản, Toán – Lý – Hóa, Khoa học cơ bản), Khoa học Y, Dược (Bệnh học đại cương, Nội khoa, Ngoại khoa, ghép tạng, Dược: Đông y, Tây y và Vắc xin), Khoa học kỹ thuật và công nghệ (Vũ khí – Đạn dược, Cơ khí – Chế tạo máy – Tự động hóa, Công nghệ thông tin – Viễn thông, Vũ trụ, Năng lượng, Sản phẩm quốc gia…), Khoa học nông nghiệp (Trồng trọt – Chăn nuôi, Thú y – Thủy sản – Chế biến sau thu hoạch …).
 
Khu trưng bày của Bộ KH&CN đã vinh dự được đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đến tham quan. Thủ tướng đã khen ngợi những kết quả tiêu biểu KH&CN của các nhà khoa học Việt Nam và khuyến khích phát triển hơn nữa để góp phần xây dựng nền kinh tế trí thức.
 
 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các đồng chí Lãnh đạo bộ, ban, ngành tham quan Khu trưng bày của Bộ Khoa học và Công nghệ
 
 
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tham quan Khu trưng bày thành tựu của Bộ KH&CN
 
 
Phó Thủ tướng trao đổi về thương mại hóa Chip 16 Byt và 32 Byt 
được sản xuất tại Việt Nam
 
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thị Nghĩa và Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Hoàng Thị Ái Nhiên tham quan gian hàng Bộ KH&CN
 
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh chụp ảnh lưu niệm cùng các cán bộ tại Khu trưng bày của Bộ Khoa học và Công nghệ
 
Nguồn:  NASATI

Đại hội Đảng bộ lần thứ 22 của Bộ Khoa học và Công nghệ

VOV.VN -Nhiệm kỳ tới, Đảng bộ Bộ KH-CN tiếp tục tập trung chỉ đạo các nhiệm vụ chính trị đưa khoa học, công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển
 
Hôm nay (29/8), tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ 22, nhiệm kỳ 2015-2020, với chủ đề “Đoàn kết, sáng tạo, xây dựng Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ vững mạnh toàn diện, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giai đoạn 2015-2020”.
 
Báo cáo chính trị tại Đại hội nêu rõ, 5 năm qua, Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm là đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động khoa học, công nghệ, nhằm đưa khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
 
Năm 2012, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng các cơ quan liên quan trình Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 20 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 
 
Đặc biệt, với Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội hội thông qua năm 2013 đã đưa khoa học, công nghệ thực sự trở thành chìa khóa để phát triển kinh tế – xã hội. Luật Khoa học và Công nghệ đã tạo khuôn khổ pháp lý để thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước trong hoạt động khoa học và công nghệ. Năm 2014, Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Chính phủ ban hành 7 Nghị định, 18 Thông tư tạo hành lang pháp lý rộng mở, bình đẳng đối với mọi thành phần công lập, ngoài công lập, nhà khoa học trong và ngoài nước…
 
Toàn cảnh Đại hội.
 
Nhiệm kỳ tới, Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo gắn với việc chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị đưa khoa học, công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế, xã hội; Tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế và chính sách thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Đầu tư phát triển mạnh tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia, trong đó, chú trọng huy động nguồn vốn đầu tư từ xã hội. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 27 đồng chí và đồng chí Trần Văn Tùng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy nhiệm kỳ này.
 
Ông Trần Văn Tùng cho biết: “Trong giai đoạn 2015-2020, Đảng bộ sẽ tập trung chỉ đạo làm sao thực hiện cho được nhiệm vụ chính trị của Bộ và ngành khoa học, công nghệ thiết thực hơn. Đó là thực hiện thật tốt Nghị quyết 20, thực hiện tốt tinh thần của Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và chiến lược khoa học – công nghệ đến năm 2020. Cùng với đó, chúng tôi cũng tập trung trong công tác xây dựng Đảng để Đảng bộ lớn mạnh, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng./.
 
Vân Anh/VOV- Trung tâm Tin

Xây dựng văn hóa đọc cần mệnh lệnh chính trị

Nhiều năm nay, báo chí đã nói nhiều về sự xuống cấp của văn học đọc và các nguyên nhân chủ yếu tác động đến văn hóa đọc là văn hóa nghe và nhìn. Thực tế, phần đa chúng ta đều hời hợt trong đánh giá văn hóa đọc nước nhà cũng như nguyên nhân của nó…
 
Thực trạng văn hóa đọc 
 
. Bởi thế, những người phát ngôn về văn hóa đọc cần dành  thời gian quan sát, xâm nhập thực tế ở các địa phương, ở các trường tiểu học đến đại học để thấy mặt cắt đại diện của văn hóa đọc trong mọi tầng lớp và ở mọi độ tuổi mới để xác chứng cái gọi là văn hóa đọc chúng ta đang ở đâu. Trước 1945, chúng ta có trên 90% dân số mù chữ, người dân không đọc được và cũng chẳng có mấy cuốn sách để đọc. Cơ hội tiếp cận sách chỉ dành cho con nhà địa chủ, con quan lại phong kiến và công chức cho Pháp. Con số người đọc chiếm phần rất nhỏ trong thời Pháp thuộc. Từ 1945-1975, với nền đọc ít ỏi trước đó, với sự ảnh hưởng của chiến tranh, người đọc có tăng lên nhưng rất ít với tiềm năng xã hội vì chúng ta không có nhiều sách để đọc, các trường cấp 1,2 và 3 đã không có thư viện. Người ta chỉ truyền tay nhau các tác phẩm của Tàu, Nga và hiếm ít sách của Phương Tây, Mỹ. Sự đọc của người Việt trong chiến tranh chỉ chiếm trên dưới 20% dân số.
 
Từ 1975 đến nay thì sao? Mười sáu năm bao cấp khó khăn, ngay cả khu vực đô thị, số người được tiếp cận sách còn ít ỏi, người nông thôn thì gần như bằng không. Oái oăm hơn, từ 1986 đến nay, kinh tế đất nước đã đi lên rõ rệt nhưng số học sinh nông thôn được đọc 5 cuốn sách ngoài sách giáo khoa/năm học vẫn là con số ít ỏi. Bởi thư viện trường học, nơi có tiềm năng đọc lớn nhất, gần như đã chết lâm sàng.
 
Qua những cứ liệu sơ bộ trên, tôi khẳng định rằng Việt Nam chưa bao giờ có 50% dân số sở hữu đọc sách như một thói quen.
 
Những việc cần làm ngay
 
Cần cho toàn xã hội biết rằng xây dựng văn hóa đọc trong mỗi cá thể là xây dựng sức mạnh quốc gia. Xây dựng văn hóa đọc là xây dựng dân trí để người Việt sống yêu thương con người và sáng tạo phục vụ tổ quốc và nhân loại.
 
Hệ thống chính trị cần xem thúc đẩy văn hóa đọc là mệnh lệnh chính trị tương tự như đưa ra khoán 10 trong thập niên 1980. Mệnh lệnh chính trị buộc các ông bà hiệu trưởng ở các cấp phải tạo điều kiện cho học sinh đọc sách, khám phá khoa học và thực hành các ý tưởng từ tiểu học. Mệnh lệnh chính trị bằng thêm tiết đọc sách trong chương trình giáo dục. Mệnh lệnh chính trị là giới thiệu sách sau phút giây thiêng  liêng là chào cờ dưới cờ tổ quốc. Mệnh lệnh chính trị là mỗi năm mỗi  học sinh và sinh viên phải đọc ít nhất 20 đầu sách ngoài sách giáo khoa và giáo trình.
 
Điều hệ thống chính trị làm được ngay và luôn là: (I) Bộ Giáo dục & Đào tạo phát hành văn bản áp dụng mô hình tủ sách phụ huynh, tủ sách lớp em đến tất cả các lớp học trên toàn quốc; (II) Trung ương hội Khuyến học đưa ngay tủ sách dòng họ vào tiêu chí Dòng họ khuyến học; (III) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch dịch chuyển vùng hoạt động từ thành phố,  huyện lỵ đến các nhà văn hóa cấp thôn xóm thay vì để sách nằm ngủ ở khu vực đô thị vốn có nhiều gia đình đủ năng lực mua sách cho con cái họ; (IV) Ban Tôn giáo chính phủ cùng với các giáo hội phát hành văn bản nhân rộng tủ sách giáo xứ, giáo họ, tủ sách nhà chùa ra toàn quốc; và Bộ Quốc phòng và Công an có chủ trương nhân rộng tủ sách hậu phương, quê hương chiến sĩ của mình ở nông thôn.
 
Song song với việc đưa ra các chủ trương vĩ mô, nhà nước đưa ra các chiến lược truyền thông để toàn xã hội chung tay giải quyết thực trạng thiếu sách ở nông thôn, truyền thông vận động người gốc nông thôn hành động đưa sách về lớp học  trường cũ, về dòng họ, xứ đạo, nhà chùa, nhà văn hóa, các gia đình sẵn sàng phục vụ cộng đồng.
Những đầu ra trong ngắn và dài hạn 
 
Trước hết, chúng ta cần nhìn thẳng sự thật rằng, trong 40 năm hòa bình mà hệ thống thư viện cấp trường học gần như không hoạt động, bình quân mỗi người dân đọc 0.8 cuốn sách/năm. Chúng ta cũng cần đối mặt với một thực tế rằng hàng chục triệu người dân sống ở nông thôn ở độ tuổi 18 trở lên gần như không biết đọc sách là gì. Và, hơn 10 triệu học sinh nông thôn đang khát sách, các em học sinh đủ năng lực đọc 30 đầu sách/năm học không kể sách giáo khoa và chúng ta đã và đang lãng phí tiềm năng đọc của học sinh trên toàn quốc. Cũng nhìn nhận ra rằng bốn mươi năm qua kể từ khi hòa bình, chúng ta đã siêu lãng phí  nguồn lực nhân văn và sáng tạo quốc gia bởi nhiều ngàn tỷ trang sách đã không được đọc.
 
Nhận dạng những thiếu sót trên và nếu hệ thống chính trị vào cuộc thúc đẩy văn hóa đọc trên quy mô quốc gia bằng những chủ trường cần như đã nêu thì chúng ta có được các đầu ra, gồm: (I) Người dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức trong và ngoài nước sẽ ủng hộ chính phủ và họ sẽ góp sức cho tiến trình khai trí kiến quốc; (II) Hệ thống thư viện rộng khắp sẽ được hình thành và người dân được tiếp cận sách ở khắp mọi nơi mà nhà nước không mất một đồng ngân sách nào; (III) Đánh thức được lượng cầu sách ở nông thôn với mỗi năm trên 1.000 tỷ đồng giúp ngành xuất bản phát triển mạnh và chất lượng hơn; (iv) Nền tảng nhân văn và sáng tạo quốc gia được dựng xây, đưa đất nước vào vị thế mới, vị thế của quốc gia nhân văn và sáng tạo. q
 
 NGUYỄN QUANG THẠCH 
 
 

39 nhà xuất bản trên cả nước không đủ điều kiện hoạt động

Thiếu kinh phí hoạt động, thiếu người đứng đầu… là những yếu tố khiến gần 2/3 nhà xuất bản trên cả nước đối mặt nguy cơ giải thể.
Cục Xuất bản ngừng cho đăng ký sách ngôn tình, đồng tính nam / Cục phó Cục Xuất bản: 'Sai phạm ở khâu nào sẽ xử phạt khâu đó'
Theo báo cáo tổng kết hoạt động sáu tháng đầu năm của Cục xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin Truyền thông), hiện chỉ có 24/63 nhà xuất bản (chiếm 38,1%) đủ điều kiện hoạt động. Có nhiều lý do khác nhau như dẫn tới tình trạng này, trong đó nhiều nhất vẫn là thiếu vốn.
 
36 đơn vị thiếu kinh phí để duy trì, năm đơn vị thiếu chức danh lãnh đạo và biên tập viên hữu cơ, ba đơn vị thiếu diện tích trụ sở. Có những nhà xuất bản thiếu cả hai tiêu chí hoạt động như: Nhà xuất bản Âm nhạc, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Nhà xuất bản Đại học Huế… Trước đó, trong bản tổng kết năm 2014, chỉ có 13% số nhà xuất bản hoạt động ổn định và phát triển, 11% thua lỗ, số còn lại tồn tại cầm chừng, không ổn định.
 
Nhiều đơn vị yếu kém, suốt sáu tháng đầu năm 2015 chỉ thực hiện được trên dưới 10 đầu sách, như: Nhà xuất bản Đại học Công nghiệp TP HCM (ba cuốn), Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp (năm cuốn), Nhà xuất bản Sân khấu (tám cuốn), Nhà xuất bản Công thương (10 cuốn)… 
 
 
Thiếu kinh phí hoạt động, nhiều nhà xuất bản liên kết với đối tác để tồn tại. Ảnh minh họa: Quý Đoàn.Thiếu kinh phí hoạt động, nhiều nhà xuất bản liên kết với đối tác để tồn tại. Ảnh minh họa: Quý Đoàn.
Ông Thanh Hà – đại diện Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP HCM – cho biết đơn vị được thành lập và có nguồn thu chủ yếu từ các trường đại học. Tuy nhiên mỗi năm họ chỉ xuất bản được trên dưới 20 đầu sách, thu nhập này là không đáng kể khi phải trả lương cho gần 20 nhân viên. "Để tồn tại, nhà xuất bản buộc phải mở rộng liên kết với các đối tác", ông Thanh Hà nói. Cũng giống nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP HCM, nhiều đơn vị áp dụng hình thức liên kết (thường là công ty sách tư nhân), lấy công việc phụ làm nguồn thu chính.
 
Điều 8, Nghị định 195/2013/NĐ-CP quy định một nhà xuất bản được thành lập khi có các điều kiện: Trụ sở nhà xuất bản có diện tích từ 200m2; có ít nhất năm tỷ đồng để đảm bảo hoạt động; có đủ trang thiết bị để duy trì. Theo điều 14 luật Xuất bản quy định nhà xuất bản có thể bị đình chỉ hoạt động nếu: "sau khi thành lập và trong quá trình hoạt động, cơ quan chủ quản và nhà xuất bản không đáp ứng đủ các điều kiện quy định".
 
Ngày 31/8 là thời hạn cuối để các cơ quan chủ quản nhà xuất bản thực hiện thủ tục đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông cấp đổi giấy phép thành lập nhà xuất bản trực thuộc. Trước tình trạng nhiều đơn vị hoạt động yếu kém, Cục khuyến nghị cơ quan chủ quản nên gấp rút tăng cường chỉ đạo, điều hành, hỗ trợ nếu muốn duy trì những đơn vị này. Mặt khác, Cục khuyên các nhà xuất bản "phải chủ động đề xuất cơ quan chủ quản bổ sung các điều kiện còn thiếu để đảm bảo hoạt động".
 
Ông Chu Văn Hòa – Cục trưởng Cục Xuất Bản – cho biết hiện Cục tiếp nhận hồ sơ xin cấp, đổi giấy phép hoạt động. Sau ngày 31/8, Cục sẽ dựa vào đó để đưa ra kết quả. Vì thế trong thời gian này Cục không thể đưa ra phát ngôn hay bình luận gì về vấn đề giải thể của những nhà xuất bản không đủ điều kiện.
 
Lam Thu

ĐHQG Hà nội đứng đầu danh sách các trường đại học tại Việt Nam về công bố quốc tế

 
 
Bộ KH&CN vừa công bố 20 tổ chức ở Việt Nam có nhiều công bố quốc tế nhất giai đoạn 2010 – 2014. Danh sách gồm 1 Viện hàn lâm khoa học, 16 cơ sở giáo dục đại học và 3 bệnh viện. ĐHQG Hà Nội đứng đầu danh sách các sơ sở giáo dục đại học của Việt Nam trong danh sách này.
 
Danh sách xếp theo thứ tự là: Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia TP HCM, ĐH Bách Khoa Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Y Hà Nội, ĐH Cần Thơ, Viện Vệ sinh Dịch tễ TW, ĐH Huế, ĐH Vinh, ĐH Y Dược TP HCM, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TW, Học viện Nông nghiệp VN, ĐH Y tế Công cộng, ĐH Nông Lâm TPHCM, ĐH Tôn Đức Thắng, Bệnh viện Bạch Mai, ĐH Nha Trang, ĐH Mỏ Địa chất, ĐH Duy Tân.
 
Các ngành có số lượng công bố quốc tế cao nhất là Toán, Lý, Hóa (chiếm 1/3 công bố quốc tế của Việt Nam). So sánh với các nước khác thì Việt Nam xếp 59 thế giới về công bố quốc tế, sau Thái Lan (xếp thứ 43), Malayxia (xếp thứu 38), nhưng cao hơn Indonesia (xếp thứ 62) và Philippines (xếp thứ 66).
 
Tin, ảnh: H.A
 

Chưa đến một thanh tra trong lĩnh vực hoạt động xuất bản, in phát hành cho một tỉnh …

Khi xảy ra một vụ việc sai phạm liên quan đến sách và hoạt động xuất bản, người ta thường nghĩ ngay đến trách nhiệm của Cục Xuất bản, In và Phát hành, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT và TT). Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý không chỉ thuộc về đơn vị này bởi còn có quy định chi tiết về công tác thanh tra, kiểm tra ở địa phương.
 
 
Trong năm 2014, Đoàn liên ngành phòng, chống in lậu (ĐLNPCIL) cấp trung ương đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 91 cơ sở in, 30 cơ sở phát hành, 12 nhà xuất bản; một vụ chuyển Cơ quan An ninh điều tra khởi tố xử lý hình sự; xử phạt vi phạm hành chính 33 tổ chức, cá nhân với tổng số tiền gần 300 triệu đồng; chuyển Sở TT&TT xử phạt theo thẩm quyền với số tiền 290 triệu đồng.
 
Về phía địa phương, năm 2014, Thanh tra Sở TT&TT Hà Nội đã ban hành 30 quyết định thanh tra, kiểm tra đối với tổ chức, cá nhân; xử phạt vi phạm hành chính đối với 24 tổ chức, cá nhân với tổng số tiền là 297 triệu đồng, tịch thu 22 xuất bản phẩm. Tại TP Hồ Chí Minh, trong sáu tháng đầu năm 2015, Thanh tra Sở TT&TT đã xử phạt ba cơ sở vi phạm, tổng số tiền phạt là 120 triệu đồng; tham mưu Chủ tịch UBND thành phố ban hành quyết định tịch thu 108.808 xuất bản phẩm in không có quyết định xuất bản (tổng giá trị theo giá bìa xuất bản phẩm là 1,778 tỷ đồng).
 
Những con số nêu trên chứng tỏ những vụ việc vi phạm trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành là khá nghiêm trọng và những hoạt động vi phạm ngày càng tinh vi hơn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với những người làm công tác quản lý là phải làm sao để công tác thanh tra, kiểm tra đạt được hiệu quả.
 
Theo Giám đốc Sở TT&TT TP Hồ Chí Minh Lê Thái Hỷ, quá trình thực thi công tác thanh tra, kiểm tra xuất bản phẩm còn nhiều khó khăn, vướng mắc và bất cập. Sở TT&TT ghi nhận một số trường hợp nhà xuất bản (NXB) giúp cho các đối tượng hợp thức hóa hồ sơ thủ tục xuất bản, gây khó khăn cho việc đánh giá hồ sơ, xác minh và xử lý. Bên cạnh đó, giám đốc NXB cho phép cấp phó giám đốc hoặc giám đốc chi nhánh NXB ký, cấp quyết định xuất bản, dẫn đến việc kiểm tra, xác minh hồ sơ gốc rất khó khăn khi tiến hành kiểm chứng đầu sách và số lượng cấp phép so với số đăng ký xuất bản theo kế hoạch. Hiện nay, trên cả nước có 64 NXB. Hằng năm các đơn vị này cho xuất bản khoảng 300 triệu bản sách. Như vậy trung bình mỗi đơn vị quản lý xuất bản của tỉnh phải quản lý xấp xỉ gần năm triệu bản sách/năm. Đấy là chưa kể sách in lậu, sách in nối bản khác. Mặt khác, nhân sự cho công tác thanh tra, kiểm tra của mỗi địa phương hiện nay ước tính trung bình chưa đến một thanh tra cho lĩnh vực xuất bản trên một tỉnh/thành phố… Thậm chí, cơ quan quản lý xuất bản cấp trung ương như Cục Xuất bản, In và Phát hành thì số lượng nhân sự cho công tác thanh tra cũng chỉ dừng lại ở con số một, hai người. Đó là một trong những khó khăn còn tồn tại trong công tác thanh tra của lĩnh vực xuất bản, in và phát hành.
 
Phó chánh Thanh tra Bộ TT&TT Đỗ Thị Tình cho biết: "Để làm rõ một cuốn sách vi phạm các quy định của pháp luật về xuất bản thường phải xác minh, thu thập tài liệu tại cơ quan quản lý nhà nước, NXB, cơ sở in và cơ sở phát hành. Các cơ quan, tổ chức này thường nằm trên nhiều địa bàn khác nhau. Hơn nữa, để đánh giá một cuốn sách có nội dung vi phạm, đòi hỏi cán bộ làm công tác thanh tra phải có trình độ kiến thức về lĩnh vực cuốn sách đề cập, nhiều vụ việc phải có trưng cầu giám định của các chuyên gia…".
 
Để công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động xuất bản, in và phát hành đạt hiệu quả, không thể không kể đến vai trò của ĐLNPCIL. Kể từ khi ra đời (5-11-2009) đến nay, ĐLNPCIL đã được thành lập tại 32 tỉnh, thành phố trong cả nước; đã phát hiện, xử lý nghiêm nhiều vụ việc vi phạm trong lĩnh vực này. Mặc dù ở một số sở TT&TT không thành lập đội liên ngành nhưng cũng đã tham mưu trình UBND cấp tỉnh bổ sung chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động in cho Đội kiểm tra Văn hóa Thông tin liên ngành 814. Tuy nhiên, đã hơn sáu năm, số đội liên ngành chống in lậu ở các địa phương vẫn chưa tăng lên, trong khi con số đơn vị hoạt động trong lĩnh vực in không ngừng gia tăng. Liệu điều đó có bảo đảm được hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động này ở các địa phương?
 
Vấn đề đặt ra hiện nay cho công tác quản lý hoạt động xuất bản, in và phát hành là bổ sung ngay các đội liên ngành cùng với việc nâng cao chế tài xử phạt, để bảo đảm tính răn đe và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định chế tài xử phạt; phối hợp chặt chẽ hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra giữa trung ương và địa phương, giữa các đơn vị với nhau; tăng cường bộ máy nhân lực và kinh phí cho hoạt động này.
 
THANH NHÀN

Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015

Sáng 16/7, tại Nghệ An, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015.
Tham dự hội nghị có các đồng chí: Nguyễn Thế Kỷ, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành; Đỗ Quý Doãn, Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam, cùng các đồng chí lãnh đạo đại diện các bộ, ban, ngành liên quan; đại diện lãnh đạo các Nhà xuất bản, đơn vị In, Phát hành trên toàn quốc.
 
Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015 là hội nghị định kỳ được tổ chức nhằm định hướng về chính trị tư tưởng trong hoạt động xuất bản, đánh giá nội dung xuất bản phẩm từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015 và đề ra phương hướng nhiệm vụ trọng tâm của ngành xuất bản trong 6 tháng cuối năm 2015.
 
 
 
Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015.
 
Báo cáo công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015 cho thấy, hoạt động xuất bản của cả nước cơ bản vẫn giữ sự ổn định, ngành xuất bản không ngừng được kiện toàn, chấn chỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đúng định hướng. Nội dung các xuất bản phẩm, nội dung xuất bản phẩm của các nhà xuất bản đã bám sát nhiệm vụ chính trị, văn hóa, tư tưởng, thể hiện ở việc đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của bạn đọc và phục vụ tốt công tác tuyên truyền đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống.
 
Trong 6 tháng đầu năm, các nhà xuất bản trong toàn quốc đã đăng ký xuất bản 48.035 cuốn, nộp lưu chiểu 11.64 cuốn với 104,00 triệu bản in (giảm 7,3% về cuốn và giảm 46,2% về bản in so với cùng kỳ năm 2014).
 
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, hoạt động của các nhà xuất bản cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế. 
 
Cụ thể, một số nhà xuất bản đăng ký đề tài không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vẫn còn hiện tượng đăng ký tên sách không phù hợp với tóm tắt nội dung, tóm tắt nội dung sơ sài hoặc trích nguyên tên sách vào phần tóm tắt nội dung hoặc viết tắt, viết sai chính tả; nộp xuất bản phẩm lưu chiểu chậm; ghi không đầy đủ hoặc không đúng quy định các thông tin trên xuất bản phẩm. 
 
Bên cạnh đó, một số nội dung xuất bản phẩm phản ánh hiện thực xã hội một cách sai lệch, không khách quan, có những nhận định, đánh giá tiêu cực đối với một số vấn đề chính trị xã hội, không phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. 
 
Một số nhà xuất bản không biên tập, đọc duyệt kỹ lưỡng, dẫn đến có những cuốn vi phạm về nội dung, bị cơ quản quản lý xử lý; ngôn từ trong một số cuốn sách có nội dung không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam, gây lệch lạc trong nhận thức của người đọc. Hiện tượng in lậu, in nối bản tiếp tục diễn biến phức tạp; thực trạng liên kết xuất bản tràn lan hiện nay gần như đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, làm suy yếu vai trò chủ đạo của các nhà xuất bản và của chính cơ quan chủ quản; một số cơ quan chủ quản Nhà xuất bản và đơn vị xuất bản chưa chủ động thực hiện đầy đủ các qui định về điều kiện thành lập và bảo đảm hoạt động của nhà xuất bản…
 
Trong 63 nhà xuất bản trên toàn quốc chỉ có 24 nhà xuất bản (chiếm 38,1%) đảm bảo đủ điều kiện hoạt động. Song, do thiếu nguồn tài chính, thiếu chức danh lãnh đạo, thiếu biên tập viên, thiếu diện tích trụ sở, chỉ có khoảng 13% nhà xuất bản hoạt động ổn định và phát triển, 11% nhà xuất bản hoạt động thua lỗ, số còn lại hoạt động cầm chừng, thiếu ổn định. Một số nhà xuất bản có năng lực xuất bản yếu kém, trong 6 tháng đầu năm 2015 chỉ xuất bản được trên dưới 10 đầu sách. 
Cùng với sự tăng trưởng về chất lượng đầu sách và số bản, nhiều nhà xuất bản tiếp tục chú trọng phát triển các tủ sách giáo dục truyền thống, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ dành cho các lứa tuổi và nhiều nhóm đối tượng bạn đọc khác nhau. Các hội chợ, triển lãm sách trong nước và quốc tế tiếp tục được duy trì và từng bước mở rộng. Đó là những đóng góp quan trọng, giàu ý nghĩa để xuất bản khẳng định vị thế là lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, có nhiệm vụ truyền bá các giá trị tinh thần, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hoá và khoa học của xã hội; xây dựng đạo đức, lối sống và phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam.
 
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Thế Kỷ đánh giá cao các đơn vị xuất bản đã chủ động xây dựng, tìm kiếm, lựa chọn nội dung bản thảo có chất lượng phục vụ công tác tuyên truyền, thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm 2015 – năm diễn ra Đại hội Đảng các cấp, chuẩn bị các công việc để tiến hành Đại hội Đảng lần thứ XII.
 
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xuất bản năm 2015, trong sáu tháng còn lại của năm, đồng chí Nguyễn Thế Kỷ đề nghị ngành xuất bản cần khẩn trương, nghiêm túc triển khai những nhiệm vụ, giải pháp mà hội nghị vừa thống nhất, phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển của ngành từ nay đến cuối năm. Trong đó, lưu ý những nhiệm vụ trọng tâm như:
 
Các nhà xuất bản trên cơ sở định hướng thông tin đã thống nhất từ đầu năm, căn cứ vào tình hình thực tiễn rà soát lại kế hoạch đề tài và kế hoạch xuất bản, đẩy nhanh tiến độ xuất bản, hoàn thành các đề tài phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, nhất là các đề tài phục vụ tuyên truyền về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng; các gương điển hình tiên tiến tiến tới Đại hội thi đua yêu nước lần thứ IX; phát triển kinh tế – xã hội; tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc và các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm quan trọng của dân tộc, đất nước: 70 năm Cách mạng Tháng tám và Quốc khánh 2-9.
 
Các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý nghiên cứu, có cơ chế phù hợp, phối hợp với cơ quan chủ quản tăng cường nguồn lực cho nhà xuất bản, tiếp tục đẩy nhanh quá trình tham mưu, xây dựng bổ sung vốn, nhất là vốn lưu động; đẩy mạnh triển khai đầu tư trụ sở, trang thiết bị cho nhà xuất bản trực thuộc, tạo sự chuyển biến tích cực về năng lực, tiềm lực ở các nhà xuất bản, đặc biêt khối các nhà xuất bản địa phương. Đối với các nhà xuất bản thuộc khối doanh nghiệp, nghiên cứu, linh hoạt sử dụng các cơ chế đầu tư thông qua các kênh đặt hàng, đấu thầu, tạo nguồn tích lũy cho nhà xuất bản, sớm thực hiện việc hỗ trợ các đơn vị xuất bản theo Luật Xuất bản năm 2012 và Điều 8 Nghị định 195/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Xuất bản năm 2012, bảo đảm từ nay đến cuối năm vấn đề này được triển khai đồng bộ, toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp xuất bản.
 
Để chuẩn bị cho Lễ tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 42 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về“Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản” và sơ kết 5 năm các quyết định QĐ 281, 282, 283 của Ban Bí thư về xuất bản trong quý IV năm nay, đồng chí Nguyễn Thế Kỷ cũng đề nghị các nhà xuất bản tập trung trí tuệ toàn ngành, bám sát nhiệm vụ, hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, đáp ứng tốt nhu cầu về xuất bản phẩm của toàn xã hội, xây dựng ngành xuất bản phát triển vững mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 
Tuấn Trí

Nhà sáng chế không chuyên: Thiếu vốn là khó khăn lớn nhất

 
 
Ông Đỗ Văn Trường trong buổi Giao lưu trực tuyến sáng 25/4. Ảnh: NH
 
Đến nay, mặc dù đã cung cấp cho thị trường hàng trăm chiếc bơm vô ống, cũng có khi lợi nhuận lên đến 500 triệu đồng/năm nhưng khó khăn lớn nhất với với ông Đỗ Văn Trường – Thị Xã Tam Điệp, Tỉnh Ninh Bình vẫn là nguồn vốn để phát triển và nhân rộng sản phẩm.
Là khách mời của chương trình Giao lưu trực tuyến "Tôn vinh hoạt động đổi mới sáng tạo trong quần chúng nhân dân" do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ (KH&CN) và báo Đất Việt phối hợp tổ chức, ông Đỗ Văn Trường đã chia sẻ nhiều điều xoay quanh việc nghiên cứu, thiết kế, chế tạo ra sản phẩm bơm vô ống có nhiều tính năng vượt trội so với bơm trục đứng trên thị trường. 
 
– Xin ông cho biết một số thông tin về sản phẩm bơm vô ống do ông thiết kế, chế tạo? 
 
Ông Đỗ Văn Trường: Tôi là thợ cơ khí, có một xưởng cơ khí nhỏ trước đây chuyên sản xuất, sửa chữa các loại máy móc do khách hàng đặt, trong đó mặt hàng bơm nước là nhiều nhất. Đầu tiên, tôi sản xuất loại bơm có ống. Qua quá trình sản xuất và bán cho khách hàng, tôi đã cải tiến từng phần và tìm ra những cách tiết kiệm năng lượng cho bơm.
 
Ví dụ, tôi thấy ống càng ngắn càng to thì càng giảm năng lượng cho bơm khi bơm cùng lượng nước. Tôi nghiên cứu, thử nghiệm các loại cánh bơm, tạo ra sự luân chuyển nước đều, không bị quẩn xoáy trong vùng hoạt động của cánh bơm, giảm năng lượng tiêu hao. Tính toán vận tốc nước qua bơm phù hợp với độ cao của nước để giảm tối thiểu lực gia tốc khối lượng nước. Lực này rất đáng kể vì không phải quan hệ bậc nhất mà quan hệ bình phương với vận tốc.
 
Xuất phát từ thực tế nước ta là nước nông nghiệp, diện tích cấy lúa nước rất nhiều ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, tôi đã có ý tưởng thiết kế, chế tạo loại bơm đơn giản nhưng hiệu quả này. 
 
Như đã biết, động lực bơm nước là do mặt phẳng nghiêng cánh quay quanh trục tạo lực nâng nước, do đó, ống bơm là phần dẫn nước. Ta có thể không cần ống bơm, thay vào đó là bửng bơm để ngăn cách mặt nước bên này với bên kia. Bửng bơm lắp vào mang cống, thân bơm liên kết với bửng bơm, chiều dài thân bơm chỉ 30 phân, đường kính thân bơm 90 phân vừa để lắp đủ cánh bơm. 
 
Cánh bơm liên kết với trục quay, trên đầu trục có buli, động cơ điện lắp trên bờ kéo bằng dây cuaroa quay chuyển động xuống cánh bơm. Có cơ cấu đóng mở nắp, khi bơm ta quay mở nắp bơm. Bơm xong, ta quay cơ cấu đóng nắp bơm lại thì lúc này bơm như một cánh phai cống đóng kín nước. Do bơm không có ống nên lấy tên là bơm vô ống. 
 
Bà con nông dân ở đồng bằng Bắc Bộ đang sử dụng phổ biến loại bơm trục đứng và một số ít sử dụng bơm ly tâm. Sản phẩm bơm vô ống có tính khác biệt so với 2 loại bơm này về hiệu quả và tiết kiệm điện năng. Bơm vô ống tiết kiệm 3,5 lần về điện năng so với bơm trục đứng. Ví dụ, cùng lượng nước bơm như nhau, đối với mỗi vụ lúa, bơm trục đứng tiêu hao điện năng 7.000 kWh, thì bơm vô ống chỉ tiêu thụ hết 2.000 kWh. 
 
Bơm vô ống là loại bơm đơn giản, trọng lượng nhẹ gấp 5 lần bơm trục đứng dù cùng công suất. Do đó, giá thành thấp hơn 4 lần so với bơm trục đứng. Ngoài ra, loại bơm này còn giúp giảm nhiều các chi phí khác. Bơm vô ống bơm được 2 chiều nên chỉ cần xây dựng một cống vẫn có thể vừa bơm ra vừa bơm vào bằng cách đảo pha điện.
 
Còn đối với bơm trục đứng, phải xây cống lấy nước, cống nội đồng, bể hút, cửa xả và cửa tưới rất tốn kém. Ngoài ra, do điện năng tiêu thụ ít, nên đối với loại bơm công suất 4.000m3/h, bơm vô ống chỉ dùng động cơ 20kW, còn bơm trục đứng dùng động cơ 75kW. Do đó, bơm vô ống có thể sử dụng trực tiếp lưới điện có sẵn của địa phương, còn bơm trục đứng đòi hỏi phải xây dựng trạm biến áp mới, tốn kém hơn. Bơm vô ống có độ bền cao, chi phí sửa chữa ít.
 
 
Ông Đỗ Văn Trường giới thiệu về sản phẩm. (Ảnh: NH)
 
Hiện nay các hợp tác xã đã có sẵn cống nội đồng, bơm vô ống sẽ sử dụng những cống có sẵn và không phải xây cống mới.
 
– Sản phẩm bơm vô ống của ông đã được người dân địa phương đón nhận như thế nào?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Năm 2004, tôi đã thiết kế, chế tạo thành công, đưa vào sử dụng bơm vô ống ngay tại nơi tôi ở (Đội 1, nông trường Đồng Giao). Vụ chống lụt năm ấy, hợp tác xã Đàm Khánh sang thăm và thấy rõ hiệu quả của bơm nên đã đặt tôi sản xuất 1 chiếc công suất 4.000 m3/h, động cơ kéo 20kW, giá 20 triệu đồng.
 
Tôi nhớ khi ấy Đội 1 đang chống hạn cho lúa. Hôm thử bơm, 1 giờ đêm nước mới lên, chỉ có mình tôi ngoài đồng, thấy kết quả tốt, mừng quá tôi về báo gia đình. Cả nhà tôi lẫn hàng xóm kéo ra đồng xem, mọi người rất ngạc nhiên vì động cơ nhỏ mà lượng nước bơm như tháo cống, nước bơm rất mạnh, chỉ 15 tiếng đồng hồ bơm đã đủ nước chống hạn cho 50ha.
 
Do tôi thấy loại bơm này có lợi ích lớn đối với nông nghiệp và thị trường sử dụng rộng nên tôi đã làm đơn bảo hộ độc quyền sáng chế gửi Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN. Năm 2006, bơm vô ống đã được Cục cấp bằng độc quyền sáng chế.
 
– Khó khăn lớn nhất của ông khi muốn hoàn thiện, phát triển và nhân rộng sản phẩm của mình là gì?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Khi thiết kế thành công bơm vô ống năm 2004 tôi cũng có ý định phát triển và nhân rộng sản phẩm nhưng khó khăn lớn nhất vẫn là thiếu vốn. 
 
Đất tôi ở khi đó chưa có sổ đỏ nên không thể thế chấp để vay ngân hàng nên tôi chỉ vay mượn người thân, bạn bè để mở rộng diện tích xưởng cơ khí từ 70m2 lên 200m2 và sắm thêm một số máy móc đơn giản, rẻ tiền. Bởi vậy, không thể nâng cao năng suất lao động, việc phát triển và nhân rộng sản phẩm vì đó cũng rất chậm.
 
Trong thời gian sản xuất và cung ứng bơm cho thị trường, 50% hợp tác xã được huyện, tỉnh hỗ trợ vốn để mua bơm. Số bơm này được thanh toán ngay trong năm. 50% số bơm còn lại hợp tác xã  phải tìm nguồn vốn khác như dân góp, hoặc trích từ nguồn khác. Do đó, tiền thanh toán chậm, thường 3-4 năm mới thanh toán hết. Xưởng của tôi nhiều khi thiếu vốn để tái sản xuất, phải dừng lại không nhận thêm đơn hàng.
 
– Trong quá trình nghiên cứu, sáng chế, cơ quản quản lý địa phương có hỗ trợ gì, thưa ông ?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Khi tôi thiết kế, chế tạo được bơm vô ống, Sở KH&CN tỉnh Ninh Bình và Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật tỉnh đến đánh giá công trình, đồng thời mời các chuyên gia ở Viện Khoa học Thuỷ lợi và trường Đại học Bách khoa đến đánh giá. Họ đánh giá rất cao sản phẩm này và nhận định nó là loại bơm mới, chưa hề có trên thị trường.
 
Trong tỉnh, các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo cũng hỗ trợ quảng bá cho sản phẩm. Sở KH&CN Ninh Bình sau đó còn tổ chức hội thảo đầu bờ và Chủ tịch tỉnh trực tiếp đến thăm trạm bơm ở hợp tác xã có sử dụng loại bơm này. 
 
Sau khi hỏi chi phí xây dựng trạm bơm và biết hết 20 triệu đồng, Chủ tịch tỉnh đã quyết định hỗ trợ ngay chi phí xây dựng trạm bơm cho hợp tác xã và tặng đặc cách cho tác giả 10 triệu đồng, trong khi nếu theo quy chế, mức thưởng lớn nhất là 3 triệu đồng.
 
Trong Nghị quyết 03 của tỉnh về trồng cây vụ đông trên đất hai lúa có khuyến khích các hợp tác xã trồng 20 ha sẽ được tài trợ một trạm bơm vô ống. Chương trình này kéo dài trong 5 năm. Tôi thấy đây là sự hỗ trợ rất thiết thực. Trong 5 năm này tôi đã cung ứng cho thị trường trong tỉnh hơn 100 trạm bơm vô ống. 
 
– Hiện trên thị trường, các sản phẩm máy bơm của Trung Quốc xuất hiện nhiều và đa dạng về chủng loại, giá thành, làm thế nào để sản phẩm của ông có thể cạnh tranh?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Bơm vô ống đã được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN cấp bằng độc quyền sáng chế. Do đó, doanh nghiệp nước ngoài khi đưa sản phẩm vào thị trường Việt Nam cũng phải tuân thủ luật bản quyền.
 
Hiện mặt hàng bơm của Trung Quốc chủ yếu là loại bơm nhỏ, dùng trong gia đình, công suất chỉ vài chục m3/h, còn bơm vô ống phục vụ sản xuất nông nghiệp, công suất lớn 4.000m3/h. Do đó, không lo phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc.
 
– Ông có dự định gì trong thời gian tới để tiếp tục hỗ trợ những người nông dân bằng những nghiên cứu hữu ích của mình?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Hiện sản phẩm của tôi mới chỉ cung ứng chủ yếu cho tỉnh Ninh Bình và một số tỉnh lân cận như Thanh Hoá, Thái Bình, Nam Định,… Tôi mong muốn sản phẩm được bà con nông dân đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long sử dụng rộng rãi, nhưng hiện nay đang "lực bất tòng tâm" do thiếu vốn.
 
Tôi mong được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi và Nhà nước có cơ chế hỗ trợ để nhân rộng sản phẩm.
 
– Ông có đề xuất gì để Nhà nước có thể đưa ra những chính sách mới hỗ trợ những sáng kiến, sáng chế trong thời gian tới?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Để một sáng chế thành công, đối với tác giả mất rất nhiều công sức và thời gian. Có những công trình thành công, có những công trình không thành công. 
 
Theo tôi, đối với những sáng chế có hiệu quả về kinh tế, xã hội, được thực tế công nhận rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì những người sáng chế ít khi là doanh nghiệp nên muốn phát triển và nhân rộng sản phẩm cần có vốn. Những người sáng chế không chuyên như chúng tôi rất mong được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước để mở rộng quy mô và nhân rộng sản phẩm.
 
– Vâng, xin cảm ơn ông!
 
Quỳnh Chi (lược ghi)
 

Chế tạo thành công các khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực xe tăng

 
 
Đội hình xe tăng-thiết giáp của Lữ đoàn 215, Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
Viện Tự động hóa Kỹ thuật quân sự (Viện Khoa học và Công nghệ quân sự, Bộ Quốc phòng) đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công một số khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực cho xe tăng T54B, tích hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh, thử nghiệm đạt kết quả tốt.
Trên cơ sở khảo sát thực tế, xây dựng thiết kế hệ thống, thử nghiệm… các cán bộ thực hiện đề tài đã nghiên cứu chế tạo thành công các khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực xe tăng gồm: Khối đài quan sát; khối điều khiển truyền động đài quan sát; khối máy tính trung tâm (bao gồm máy tính xử lý ảnh, máy tính tính toán phần tử bắn, máy tính điều khiển truyền động, máy tính giao diện và điều khiển quang điện tử); khối thiết bị ngoại vi (gồm bảng điều khiển của trưởng xe, màn hiển thị và điều khiển của pháo thủ, cần điều khiển bổ sung của pháo thủ, màn hiển thị loại đạn, khối đo nhiệt độ thuốc đạn, khối đo các tham số nòng pháo). Ngoài ra, hệ thống cũng được kết nối với các thiết bị khác như: Khối điều khiển của trưởng xe, khối liên kết, khối đo các tham số khí tượng.
 
Các sản phẩm đã được thử nghiệm theo từng phân đoạn, tích hợp thành hệ thống hoàn chỉnh và thử nghiệm tổng hợp. Hệ thống cũng đã được lắp đặt, hiệu chỉnh thực tế trên xe tăng của Lữ đoàn 201, Binh chủng Tăng-Thiết giáp và thử nghiệm trong điều kiện cơ động tại thực địa. Kết quả cho thấy hệ thống hoạt động ổn định, thực hiện đúng các chức năng theo thiết kế, có khả năng tiếp tục phát triển thành hệ thống hoàn chỉnh, đưa vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
 
Việc nghiên cứu thiết kế chế tạo thành công các khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực cho xe tăng có ý nghĩa lớn, góp phần chủ động nguồn vật tư, trang bị trong nước, nâng cao tính chủ động trong công tác bảo đảm kỹ thuật, từ đó nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị tăng-thiết giáp.
 
Nguồn tin: qdnd.vn

NHỮNG GÓP Ý CHO VIỆC PHÁT TRIỂN NGÀNH XUẤT BẢN Một chìa khóa quan trọng cho việc hình thành nền kinh tế tri thức

 
Vài năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi Thủ tướng quyết định công nhận Ngày sách Việt Nam là 21/4 hàng năm, giới xuất bản đã nhìn thấy những chuyển biến trong văn hóa đọc, khi thấy thói quen đọc sách trở nên rõ ràng hơn với người Việt Nam, đặc biệt là các bạn trẻ, học sinh, sinh viên. Nhiều trường học phổ thông, trường đại học… và cả các cơ quan, doanh nghiệp, đã bắt đầu quay lại và mở ra thư viện, phòng đọc nhỏ, tặng sách cho nhân viên… Bản thân tôi ngày càng được mời đi nói chuyện nhiều hơn ở các trường, doanh nghiệp, tổ chức. Các hội sách ở các tỉnh thành phố trở nên phong phú, được chính quyền các cấp quan tâm, nhưng ở cấp độ nhỏ hơn, ở các trường, lớp cũng có nhiều… Giới trẻ, người Việt Nam hiểu về giá trị của sách, của tri thức. Trải qua giai đoạn kinh tế khó khăn, các doanh nghiệp và cả người lao động hiểu rằng, họ cần giỏi hơn, trưởng thành hơn, có kiến thức hơn, để có tư duy sáng tạo… thì mới phát triển được doanh nghiệp, hoặc đơn giản là xin được việc làm..
 
 
Thực tế, ngành xuất bản, văn hóa đọc nói chung và sách vở nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Thứ nhất nó giúp phát triển tri thức của dân tộc, đóng góp cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. Thứ hai nó là công cụ để tăng cường giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, qua đó buôn bán, thương mại, du lịch phát triển hơn. Thứ ba nó giúp người dân hiểu biết về văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc, là một công cụ phát triển kỹ năng, kiến thức cho người dân bên cạnh các phương tiện khác như báo chí, truyền hình… Xét riêng về khía cạnh giáo dục, sách vở là phương tiện giáo dục trọn đời, và là một công cụ cực kỳ quan trọng cho giáo dục, khi có thể nhanh chóng chuyển tải đầy đủ các kiến thức, tư duy mới trong khi sách giáo khoa, giáo trình thì chậm hơn, và chỉ cung cấp kiến thức nền tảng.
 
Tôi cho rằng việc phát triển văn hóa đọc và ngành xuất bản không phải chỉ là trách nhiệm và công việc của riêng ngành xuất bản, mà nó cần phải là sự cộng hưởng và trách nhiệm chung của toàn xã hội. Thậm chí việc phát triển ngành xuất bản chính là việc phát triển tri thức cho cả dân tộc, và cần phải biến nó trở thành một chiến lược cấp quốc gia. Thói quen đọc sách  và việc nâng cao tri thức cho người Việt không chỉ phát triển thông qua các hoạt động hội sách, hội chợ mà cần đi vào chiều sâu nhiều hơn.
 
Tôi đề xuất nên tiến hành một số hoạt động như sau:
 
Thứ nhất: Phát triển và làm mới lại hệ thống thư viện nhưng là các thư viện mở, OPEN Library như của thế giới hiện nay. Cũng giống như sự phát triển của ngành phát hành, trước đây, sách bán ở các cửa hàng “đóng”, được trưng bày cách xa tầm với của độc giả, độc giả muốn mua sách thì chỉ vào sách đó và có người đưa cho để họ chọn. Nhưng hình thức nhà sách như vậy đã quá lỗi thời, các nhà sách bây giờ đều đã chuyển sang hình thức mới là nhà sách tự chọn. Thư viện cũng vậy, cần trở thành nơi đọc sách tự chọn… Khác với thư viện số, thư viện mở sẽ là nơi để độc giả không chỉ đọc sách mà còn giao lưu, trao đổi, hình thành và phát triển thói quen đọc sách… Tại các quốc gia văn minh, các gia đình thỉnh thoảng đi thư viện hoặc học sinh được trường học cho đi thư viện, giống như đi bảo tàng… để làm quen và hình thành dần thói quen đọc sách của trẻ.
 
Thứ hai: hình thành và triển khai các dự án xuất bản lớn, mang tầm vóc Quốc gia… Ví dụ ngoài đề án đổi mới sách giáo khoa, thì còn cần hình thành các dự án phát triển, khôi phục lại lịch sử, văn hóa truyền thống, như dịch và công bố nhiều sách trong kho tàng Hán Nôm, hoặc các sách do người nước ngoài viết về Việt Nam. Hoặc nhanh chóng thay thế, làm mới và xuất bản bộ sách giáo trình hiện đại cho bậc đại học. Phát triển các dự án xuất bản sách phổ biến kiến thức cho trẻ em hoặc sử  dụng hình thức đấu thầu, mua và trang bị sách khoa học cho học sinh phổ thông, giống như chương trình Room To Read đang làm. Tôi rất ngạc nhiên và thất vọng khi thấy cả năm 2014, ngân sách & các dự án sách đặt hàng của nhà nước cho ngành xuất bản chỉ ở con số 40 tỷ. Đây là con số quá nhỏ bé so với yêu cầu…
 
 Thứ ba: Thay đổi cơ chế tiến hành, ví dụ áp dụng các hình thức hợp tác Công ty PPP hay BOT trong các lĩnh vực giao thông, vận tải cho ngành xuất bản. Tức là nhà nước và tư nhân cùng tiến hành các đề án này, theo hình thức tư nhân tự đầu tư nhưng nhà nước mua hàng hóa hoặc nhà nước bỏ tiền đầu tư bản quyền sách giáo trình đại học, rồi cho các công ty tư nhân đấu thầu quyền khai thác & sử dụng. Ví dụ nhà nước bỏ 10 triệu USD để triển khai mua bản quyền, dịch 500 cuốn sách giáo trình đại học hiện đại của thế giới, rồi cho đấu thầu quyền khai thác trong 5 năm… Đơn vị thắng thầu sẽ tìm cách hiệu quả nhất để khai thác, bán sách, họ không thể bán giá quá cao vì không ai mua, nhưng cũng không bán rẻ và sẽ tìm cách hiệu quả nhất đưa sách đến cho người tiêu dùng, ở đây là sinh viên, trường học. Tương tự như vậy, các đề án như xuất bản sách lịch sử văn hóa truyền thống, sách phổ biến kiến thức, khoa học… đều nên tiến hành theo hình thức này…
 
Cuối cùng: Việc phát triển văn hóa đọc, ngành xuất bản không thể tách rời khỏi lĩnh vực giáo dục, bởi thói quen đọc sách phải được hình thành từ thời thơ ấu và phải được nuôi dưỡng suốt quá trình lớn lên và trưởng thành của mỗi người thì văn hóa đọc mới có thể phát triển bền vững trong cộng đồng, giúp hình thành được những lớp công dân ưu tú có kiến thức, có ích cho sự phát triển của đất nước. Theo đó, nó yêu cầu chất lượng cũng như yêu cầu cái tâm thực sự của những người thực hiện trong mọi quá trình từ việc giúp học sinh/ sinh viên hiểu được tầm quan trọng trọng của việc đọc sách; việc chọn sách có chất lượng để xây dựng/ bổ sung vào các thư viện; đến việc tổ chức/ hướng dẫn học sinh/ sinh viên đọc sách, làm báo cáo; đưa ra các đề tài để học sinh phải tự tìm tòi/ học hỏi qua các cuốn sách… Một quốc gia không thể phát triển và vươn lên hàng thứ nhất nếu thiếu đi những người tài; và những người tài cũng không thể hình thành nếu thiếu đi một nền giáo dục và những người thầm lặng: những cuốn sách tốt. q
 
>> NGUYỄN CẢNH BÌNH
 
Giám đốc Công ty Alpha books