Sau 35 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước
ngoài (FDI), khu vực FDI đã trở thành một bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự thịnh
vượng và phát triển của Việt Nam.
Hàng năm, khu vực FDI đóng góp hơn 16% tổng vốn đầu
tư thực hiện toàn xã hội, 20% GDP, 70% kim ngạch xuất khẩu
và 50% sản lượng công nghiệp của Việt Nam.
Cùng với việc phát triển quan hệ đối tác toàn diện, đối tác
chiến lược với các nước trên thế giới và tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, trong những năm gần đây, Việt
Nam chuyển sang thu hút FDI có chất lượng và hiệu quả cao
hơn. Hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài ngày càng sôi
động, nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn có công
nghệ hiện đại tham gia đầu tư vào Việt Nam. Quy mô vốn và
chất lượng dự án tăng, góp phần tạo việc làm, thu nhập cho
người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; tăng thu
ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao vị
thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thu hút
và sử dụng FDI thời gian qua còn một số bất cập. Trước hết,
phải kể đến việc liên kết và hiệu ứng lan tỏa năng suất và công
nghệ của khu vực FDI đến khu vực trong nước còn hạn chế. Bên
cạnh đó, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện thấp so với vốn đầu tư đăng
ký cũng là một vấn đề cần được quan tâm xử lý. Một số doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài chưa tuân thủ nghiêm túc quy định
của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường. Một số doanh
nghiệp còn có hành vi chuyển giá, thiếu trung thực trong báo
cáo tài chính để trốn thuế.
Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị
khóa XII Đảng cộng sản Việt Nam về định hướng hoàn thiện
thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu
tư nước ngoài đến năm 2030 đặt ra yêu cầu “Chủ động thu hút,
hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả,
công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu
tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ
cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có
tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu”.
Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27/4/2020 ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 50-NQ/
TW cũng đặt ra nhiệm vụ: đổi mới, nâng cao nhận thức, tư duy
và thống nhất trong hành động về đầu tư nước ngoài, trong đó
có nội dung quan trọng là “chủ động nâng cao chất lượng thu
hút và hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài tại địa phương, để trở
thành một trong các thước đo đánh giá trách nhiệm của người đứng đầu, đồng thời là chỉ số đánh giá, xếp hạng hiệu quả đầu tư
nước ngoài tại các địa phương”.
Việc “Xây dựng các tiêu chí về đầu tư để lựa chọn, ưu tiên
thu hút đầu tư phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển
ngành, lĩnh vực, địa bàn” và “Xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu
quả đầu tư nước ngoài về kinh tế, xã hội, môi trường và quốc
phòng, an ninh” đã được đề cập tại Nghị quyết 50-NQ/TW như
một giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI chất lượng cao.
Thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật, trong đó có các điều khoản quy định về điều kiện, tiêu
chí lựa chọn dự án FDI nhằm tạo hành lang pháp lý để các địa
phương chủ động xem xét, chấp thuận chủ trương đầu tư trước
khi quyết định dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, các tiêu chí quy định về lựa chọn dự án FDI phân tán ở
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nên khi áp dụng
vào thực tế địa phương có thể dẫn đến thiếu sót, lọt lưới các dự
án không mong muốn.
Các tiêu chí báo cáo về FDI hiện nay phân tán theo yêu cầu
khác nhau của từng bộ, ngành, từng địa phương, chồng chéo lẫn
nhau gây khó khăn cho doanh nghiệp FDI trong việc chuẩn bị
báo cáo theo yêu cầu của các cơ quan quản lý khác nhau. Chưa
có bộ tiêu chí đầy đủ đánh giá hiệu quả FDI một cách toàn diện
và thống nhất ở các cấp, các ngành, các địa phương làm căn cứ
cho việc giám sát, đánh giá hiệu quả thu hút và sử dụng FDI trên
phạm vi quốc gia cũng như trong từng địa phương.
Nhằm hỗ trợ đội ngũ cán bộ lãnh đạo và chuyên viên các
cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài ở các tỉnh nắm
bắt được đầy đủ các quy định pháp luật liên quan đến FDI, thực
thi dễ dàng hơn nhiệm vụ rà soát, xử lý lựa chọn dự án đầu tư,
rút ngắn thời gian thẩm định và trả lời nhà đầu tư nước ngoài
khi xem xét hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư; giám
sát, đánh giá đúng vị trí, vai trò và đóng góp của khu vực FDI
đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, cũng như
kết quả đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong việc hợp tác đầu
tư với nước ngoài, Viện Nghiên cứu đầu tư quốc tế (ISC) trân
trọng giới thiệu cuốn “Sổ tay hướng dẫn quản lý hoạt động hợp
tác đầu tư nước ngoài (dành cho cán bộ tỉnh)”.
Hy vọng cuốn sổ tay sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình quản lý
hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài ở các địa phương và các tổ
chức, cá nhân khác có liên quan.