Vai trò của khoa học và công nghệ hiện đại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 

 

 

Xác định rõ tầm quan trọng của KH-CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH-CN đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

 

1. Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XX với nội dung chủ yếu là cơ khí hoá, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH-CN) hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX và nhanh chóng làm nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội toàn cầu. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 lĩnh vực chủ yếu, đó là: Tự động hoá, sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt; sử dụng năng lượng, ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thuỷ điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là chủ yếu và các dạng năng lượng “sạch” như năng lượng mặt trời, v.v…; công nghệ vật liệu mới, xuất hiện với nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Ví dụ: vật liệu tổ hợp (composit); gốm zincôn hoặc cácbuasilích chịu nhiệt cao…; công nghệ sinh học, được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường… như công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào; điện tử và tin học, đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo bốn hướng: nhanh (máy siêu tính); nhỏ (vi tính); máy tính có xử lý kiến thức (trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa (viễn tin học).

Từ nội dung trên, ta thấy cách mạng KH-CN hiện đại có hai đặc điểm chủ yếu sau:

Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự nhiên – kỹ thuật lẫn khoa học xã hội, nhất là khoa học kinh tế) do con người tạo ra và thông qua con người đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học, kỹ thuật, công nghệ tương ứng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH).

Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược KH-CN với chiến lược CNH-HĐH nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nói chung.
Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng KH-CN ở nước ta hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu; 1) Xây dựng thành công cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân; 2) Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của KH-CN hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

Trong quá trình thực hiện cách mạng KH-CN, điểm nổi bật được chú trọng là ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ CNH-HĐH và từng bước phát triển kinh tế tri thức; sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho KH-CNå; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả; kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội.

Xác định rõ tầm quan trọng của KH-CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH-CN đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta khẳng định: “KH-CN giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các chiến lược KH-CN nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực KH-CN của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí”(1). Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi bàn đến vai trò của KH-CN hiện đại, Đảng ta nhấn mạnh: “KH-CN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển KH-CN nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực KH-CN gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực KH-CN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KH-CN hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng KH-CN”(2). Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã thông qua Nghị quyết mới về “Phát triển KH-CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” cũng đã thể hiện rõ hơn điều đó. Ngoài ra, vai trò của KH-CN hiện đại còn được thể hiện rõ trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Khoản 1, Điều 62, Chương III, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: Phát triển KH-CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Như vậy, có thể nói rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển KH-CN hiện đại là “quốc sách hàng đầu” và giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chiến lược phát triển KH-CN ở Việt Nam cần tập trung một số nội dung:

Thứ nhất, ưu tiên phát triển nguồn nhân tài chất lượng cao, chú trọng việc vận dụng kiến thức, kinh nghiệm khoa học của đội ngũ trí thức trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về KH-CN. Trọng tâm là giáo dục và đào tạo ở bậc đại học phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trong đó ưu tiên đầu tư ngân sách cho các ngành khoa học mũi nhọn, những công trình nghiên cứu cấp quốc gia, quốc tế, những công trình ứng dụng có hiệu quả kinh tế cao. Các viện nghiên cứu và các trung tâm khoa học có sự liên thông, liên kết chặt chẽ trên phạm vi cả nước, nhằm khai thác triệt để sức mạnh tổng hợp của nguồn chất xám. Mỗi sinh viên trong suốt quá trình đào tạo phải được biên chế trong một tổ, nhóm nghiên cứu cụ thể, do các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành trực tiếp phụ trách. Kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên sẽ được đánh giá, xếp loại từng học kỳ, từng năm và có giá trị ngang với việc học tập lý thuyết cơ bản. Cần cải cách giáo dục theo hướng tích cực nhằm rút ngắn thời gian đào tạo và trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học.

Thứ hai, phát huy có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng nhân tài. Việc thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ quan trọng, trong đó không chỉ ở các cơ quan Trung ương, mà ở các địa phương cũng cần phải có kế hoạch sử dụng nhân tài, công khai mời gọi và lựa chọn nhân tài KH-CN tiên tiến trong và ngoài nước. Chú ý đến việc xây dựng những tập thể và nhóm nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. Quan tâm và sử dụng có hiệu quả các nhà khoa học tài năng ngoài Đảng vào các vị trí then chốt trong bộ máy chính quyền. Điều đó cần thấu triệt trong cả nhận thức và hành động, khắc phục tình trạng lâu nay, ở không ít nơi chỉ nói lý thuyết suông, chứ chưa thực sự thực hiện.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển KH-CN, chú trọng vào việc việc ứng dụng, sáng tạo công nghệ cao làm động lực cho đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức. Đã từ lâu, chúng ta quan tâm tới việc phát triển KH-CN, song trong lĩnh vực công nghệ chúng ta chưa tập trung vào việc ứng dụng và sáng tạo, phát triển công nghệ cao. Vì vậy, trong thực tế, một mặt, chúng ta không tạo được động lực cho phát triển, mặt khác, với việc ứng dụng công nghệ lạc hậu, một hậu quả tất yếu là sẽ cản trở quá trình CNH, HĐH đất nước; cản trở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội. Đã đến lúc cần phải “tuyên chiến” với công nghệ lạc hậu và chỉ chấp nhận nhập khẩu, ứng dụng và đầu tư sáng tạo công nghệ cao đồng thời với việc sử dụng có hiệu quả những công nghệ hiện có. Là nước đi sau, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có.

Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức, nhất là công nghệ thông tin, chúng ta có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước. Phát triển mạnh KH-CN làm động lực đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực KH-CN; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng… Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ, các sản phẩm KH-CN trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển KH-CN.

Thứ tư, nghiên cứu đưa các sáng chế KH-CN hiện đại vào sản xuất, phát triển các nhóm ngành công nghiệp cơ khí, điện tử – công nghệ thông tin, chế biến tinh lương thực – thực phẩm có hàm lượng KH-CN và giá trị gia tăng ngày càng cao. Trong đó, chú ý nghiên cứu đưa tiến bộ KH-CN sinh học vào phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp tri thức, xây dựng nông thôn mới.

Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quản lý để cung cấp cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của đất nước, nhất là các giải pháp trên lĩnh vực về giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội, giảm nghèo bền vững và hội nhập quốc tế./.

 

TS. Nguyễn Đình Quốc Cường (Theo Tạp chí Tuyên Giáo)

 

 

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *