Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN phát triển

 
DNKHCN đã chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN
 
Năm 2020, mặc dù chịu tác động không nhỏ từ đại dịch Covid-19, nhưng doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKHCN) vẫn có những bước phát triển đáng ghi nhận: số lượng doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN cao hơn năm 2019, tổng doanh thu của các DNKHCN chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong GDP cả nước. Nhằm tiếp tục hỗ trợ DNKHCN phát triển, bên cạnh việc tiếp tục tạo hành lang pháp lý thuận lợi, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Đóng góp của doanh nghiệp cho GDP ngày càng cao
 
Theo TS. Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp KH&CN, cả nước hiện có gần 540 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN trên tổng số 3.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo mô hình DNKHCN. Trên cơ sở báo cáo của 235 doanh nghiệp cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2019, cho thấy DNKHCN tạo việc làm cho gần 31.270 người lao động với thu nhập bình quân 15 triệu đồng/người/tháng. Tổng doanh thu của 235 doanh nghiệp năm 2019 đạt trên 147.170 tỷ đồng. Trong đó, có 217 doanh nghiệp có doanh thu từ sản phẩm KH&CN với tổng trên 24.123 tỷ đồng (chiếm 16,3% tổng doanh thu). Năm 2019, tổng doanh thu của 235 DNKHCN đạt 2,39 % GDP cả nước
 
Ông Quất cho biết thêm, có 198 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế đạt trên 5.268 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế của sản phẩm KH&CN đạt gần 1.344 tỷ đồng/183 doanh nghiệp.
 
DNKHCN là nơi nhận chuyển giao các kết quả nghiên cứu từ khu vực viện nghiên cứu, trường đại học và của các nhà khoa học đưa vào sản xuất kinh doanh; nơi các kết quả được chuyển giao, nơi tạo công ăn việc làm cho xã hội, là nơi các nhà khoa học có thể đưa trí tuệ, những ý tưởng của mình để tạo ra những sản phẩm đem lại lợi ích cho xã hội. Tín hiệu đáng mừng đó là, hiện các doanh nghiệp nói chung và các DNKHCN nói riêng đã chú trọng nhiều hơn tới việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Số liệu thống kê cho thấy, có khoảng 7% doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận từ kết quả KH&CN từ nguồn ngân sách nhà nước; hơn 90% doanh nghiệp còn lại tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao kết quả KH&CN bằng toàn bộ nguồn vốn của chính doanh nghiệp. Hiện nhiều doanh nghiệp và DNKHCN đã hình thành trung tâm hoặc viện nghiên cứu và trích một phần lợi nhuận để hình thành quỹ phát triển KH&CN nhằm tạo nguồn tài chính chủ động đầu tư cho hoạt động KH&CN, giúp đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp như Viettel, Phenikaa, Vingroup,…
 
Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng, đây là hướng đi đúng và giống thông lệ của các nước. Chúng ta đã và đang từng bước đưa KH, CN và đổi mới sáng tạo (ĐMST) vào doanh nghiệp và tập trung cho nghiên cứu KH, CN & ĐMST tại doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển một cách bền vững và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
 
DNKHCN đã chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra. Có 138 doanh nghiệp được cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và 9 doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ và đang chờ kết quả. Ví dụ: Công ty Cổ phần Robot Tosy đăng ký bảo hộ tại 21 nước trên thế giới; Công ty TNHH Thiết bị Y tế Bắc Việt sở hữu hơn 15 bằng độc quyền sáng chế và bằng kiểu dáng công nghiệp; Công ty Cổ phần Công nghiệp và thiết bị chiếu sáng Duhal sở hữu 15 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp;…
 
Số lượng DNKH&CN không nhiều nhưng các doanh nghiệp đó tồn tại, phát triển một cách bền vững. Đặc biệt, qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta đều nhìn thấy sự phát triển vượt bậc của DNKH&CN. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, nhiều DNKHCN đã kịp thời điều chỉnh chiến lược kinh doanh, tập trung phát triển sản phẩm mới, tìm kiếm đối tác hợp tác mới và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường trong nước. Một số doanh nghiệp đã nghiên cứu và triển khai nhiều ứng dụng công nghệ để tăng khả năng tiếp cận khách hàng, thay đổi phương thức kinh doanh từ trực tiếp truyền thống sang kinh doanh online, giao hàng và thanh toán tận nhà, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong đó nghiên cứu và sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu có nhu cầu cao, nội địa hóa nguồn cung nguyên vật liệu. Một số doanh nghiệp đã nghiên cứu đầu tư dây chuyền sản xuất các thiết bị y tế, các sản phẩm chế phẩm sinh học phục vụ cho công tác phòng, chống dịch. Công ty Cổ phần Sao Thái Dương đã hợp tác với các nhà khoa học để chế tạo thành công hai bộ kit phát hiện virus SARS-CoV-2; Công ty Cổ phần Công nghệ mới Nhật Hải nghiên cứu chế tạo thử nghiệm một số hợp chất nano từ thiên nhiên có khả năng ức chế SARS-CoV-2, ngăn bão hòa Cytokine và giảm khả năng đông máu, hỗ trợ điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19; Công ty TNHH Châu Đà sản xuất sản phẩm máy sản xuất khẩu trang tự động đáp ứng nhu cầu sản xuất khẩu trang y tế trong mùa dịch bệnh,…
 
Tiếp tục hoàn thiện chính sách về DNKHCN 
 
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH&CN nói chung trong đó có DNKHCN và được cụ thể hoá thông qua các Nghị định, thông tư, nhiệm vụ KH&CN, chương trình KH&CN, dự án cụ thể như: Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về DNKHCN, Chương trình Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592), Dự án Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ (FIRST), Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN,…
 
 
 
 
 
Tiếp tục thúc đẩy liên kết viện – trường – doanh nghiệp nhằm hỗ trợ hình thành và phát triển DNKHCN
 
Năm 2020, một số văn bản pháp quy mới được ban hành, trong đó có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thúc đẩy sự phát triển DNKHCN như Luật Đầu tư 2020, Luật Doanh nghiệp 2020 và một số văn bản dưới luật khác. So với Luật Đầu tư 2014 thì Luật Đầu tư 2020 đã bổ sung quy định về cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo DNKHCN là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư (Điều 15) và bổ sung quy định về ngành nghề ưu đãi đầu tư đối với hoạt động sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của DNKHCN (Điều 16). Khi các quy định này có hiệu lực thì hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của DNKHCN sẽ được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước dành cho dự án đầu tư thuộc danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư. 
Tháng 3/2021, Thông tư 03/2021/TT-BTC ngày 11/01/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp KH&CN quy định tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN bắt đầu có hiệu lực. 
 
Tại cuộc Họp báo thường kỳ của Bộ KH&CN diễn ra mới đây, ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và DNKHCN cho biết, sắp tới, Bộ KH&CN sẽ ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 13 về DNKHCN để làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến thủ tục công nhận, cấp giấy chứng nhận DNKHCN. Trong định hướng tái cấu trúc các chương trình KH&CN Quốc gia, Chương trình 592 cũng được đưa vào tái cấu trúc ở phần thương mại hóa, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thị trường KH&CN, sau chuỗi nghiên cứu và phát triển. Định hướng này sẽ được tăng cường trong giai đoạn tới.
 
“Trong đại dịch Covid-19, chúng tôi đã triển khai nhiều hành động hỗ trợ, ví dụ như chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp có sản phẩm test Covid – 19, các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe người tiêu dùng, thiết bị y tế phòng chống dịch,… phát triển thị trường trong nước cũng như kết nối với thị trường nước ngoài. Đó cũng là định hướng chúng tôi sẽ đưa vào chương trình hỗ trợ trong giai đoạn tới”, ông Phạm Hồng Quất cho biết thêm.
 
DNKHCN đang được hưởng nhiều hỗ trợ của Nhà nước như hỗ trợ về đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp; được giới thiệu quảng bá sản phẩm thông qua các hội thảo, triển lãm; kết nối cung – cầu, chợ công nghệ và thiết bị… Nhờ được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho KH&CN, đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh. 
 
Theo TS. Phạm Hồng Quất, để tiếp tục phát triển DNKHCN trong giai đoạn tới, cần tập trung hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về DNKHCN đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi. Cụ thể, đồng bộ hóa hệ thống cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về KHCN&ĐMST gồm: Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quản lý sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển DNKHCN; cơ chế giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước; cơ chế phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu… Thiết kế hệ thống chính sách ưu đãi theo hướng ưu đãi áp dụng đối với sản phẩm mới thay vì áp dụng theo chủ thể đầu tư như hiện nay, nhằm đảm bảo sự phù hợp với quy định của Luật Đầu tư và thúc đẩy doanh nghiệp liên tục thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển, tạo ra các sản phẩm mới cho thị trường. Đề xuất xây dựng chính sách ưu tiên sử dụng các sản phẩm KH&CN của DNKHCN.
 
Thứ hai, thúc đẩy liên kết viện, trường và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ hình thành và phát triển DNKHCN. Theo đó, xây dựng và ban hành cơ chế phù hợp tạo sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận kết quả KH&CN mới để hình thành các DNKHCN; Thúc đẩy hỗ trợ phát triển mô hình doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) từ các trường đại học, viện nghiên cứu nhằm thúc đẩy việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra từ viện, trường. Thúc đẩy hoạt động của các cơ sở ươm tạo tại trường, viện và thu hút sự đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, DNKHCN dẫn dắt các lĩnh vực.
 
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động truyền thông về sản phẩm KH&CN, DNKHCN để nâng cao giá trị thương hiệu, tạo uy tín đối với người tiêu dùng, giúp thương hiệu “doanh nghiệp khoa học và công nghệ” trở thành thương hiệu mạnh, nâng cao lợi thế cạnh tranh cho DNKHCN. Các hoạt động truyền thông về sản phẩm KH&CN, DNKHCN được đẩy mạnh cả về tần suất thực hiện, hình thức đa dạng, lựa chọn những doanh nghiệp điển hình, tiêu biểu với các sản phẩm chất lượng.
 
Thứ tư, chuyển đổi, cơ cấu lại các chương trình có nội dung hỗ trợ phát triển DNKHCN theo hướng đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ thương mại hóa, phát triển thị trường cho những sản phẩm KH&CN chất lượng nhằm chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu.
 
Cuối cùng, tăng cường hỗ trợ hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là Hiệp hội DNKHCN Việt Nam. Thực hiện hỗ trợ các DNKHCN thông qua Hiệp hội để tạo tác động lan tỏa và thúc đẩy sự liên kết giữa các DNKHCN.
 
Bài, ảnh: Hạnh Nguyên
 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *